Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/ 2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, định hình con đường phát triển bền vững cho toàn vùng trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến gay gắt và yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng.
1. Định hướng phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 13-NQ/TW
Nghị quyết số 13-NQ/TW khẳng định mục tiêu đến năm 2030, Đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu trở thành vùng sinh thái, văn minh, bền vững, mang bản sắc sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp hiện đại và hiệu quả. Vùng phát triển hạ tầng đồng bộ, thích ứng biến đổi khí hậu, thúc đẩy kinh tế biển, du lịch và tăng cường kết nối. Đồng thời, chú trọng khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực, bảo tồn tài nguyên, văn hóa và bảo đảm quốc phòng - an ninh; đến năm 2045, Đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng phát triển toàn diện, sinh thái, văn minh, bền vững và giàu bản sắc sông nước; có trình độ phát triển khá, hạ tầng hiện đại và thích ứng khí hậu. Kinh tế năng động, hiệu quả, phù hợp điều kiện tự nhiên; đời sống người dân cao; văn hóa các dân tộc được bảo tồn; quốc phòng - an ninh vững chắc; hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và khối đại đoàn kết được củng cố.
Những định hướng lớn về phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hạ tầng giao thông chiến lược, hạ tầng thủy lợi - phòng chống sạt lở, xâm nhập mặn, hạ tầng số và logistics được xác định là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng liên kết nội vùng và liên vùng. Đồng thời, Nghị quyết số 13-NQ/TW cũng đề cao vai trò đột phá của nguồn nhân lực chất lượng cao, yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo nghề, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số trong nông nghiệp. Việc bảo vệ môi trường, quản lý bền vững tài nguyên nước và tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu được đặt ngang hàng với mục tiêu phát triển kinh tế, thể hiện quan điểm nhất quán về phát triển bền vững. Liên kết vùng, hợp tác quốc tế và củng cố quốc phòng - an ninh được xem là động lực tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho ĐBSCL phát triển hiệu quả, ổn định và an toàn lâu dài.
2. Kết quả bước đầu trong thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW tại Đồng bằng sông Cửu Long
Sau hơn hai năm triển khai nghị quyết, bức tranh phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long đã có những chuyển biến rõ nét. Kinh tế vùng duy trì tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn. Năm 2022, GRDP toàn vùng tăng trên 7%; năm 2023 đạt 6,37%, thuộc nhóm cao nhất cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, với sự gia tăng của công nghiệp và dịch vụ, trong khi nông nghiệp giảm tỷ trọng nhưng tăng chất lượng. Đáng chú ý, nhiều địa phương từng đối diện khó khăn đã vươn lên mạnh mẽ: trong nửa đầu năm 2024, Trà Vinh tăng trưởng trên 10%, Hậu Giang trên 8%[1], những con số hiếm thấy trong nhiều năm trước. Sự bứt phá này phản ánh tác động tức thời của cơ chế, chính sách mới, đồng thời cho thấy định hướng phát triển của nghị quyết đã bắt đầu đi vào cuộc sống.
Hệ thống kết cấu hạ tầng của vùng cũng chứng kiến những thay đổi quan trọng. Nhiều dự án giao thông chiến lược được hoàn thành hoặc khởi công đồng loạt, tạo nên sự thay đổi mang tính cấu trúc cho cả vùng. Các tuyến cao tốc mới, cầu trọng điểm, nâng cấp quốc lộ huyết mạch giúp rút ngắn thời gian di chuyển, mở rộng không gian phát triển và giảm chi phí logistics. Bên cạnh đó, các công trình thủy lợi như cống Cái Lớn - Cái Bé, hệ thống đê biển Tây… đi vào hoạt động đã góp phần kiểm soát xâm nhập mặn, hạn chế thiệt hại trong các đợt hạn mặn gần đây. Những thành tựu này khẳng định vai trò quan trọng của đầu tư hạ tầng trong thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Cùng với kinh tế và hạ tầng, đời sống nhân dân trong vùng cũng được cải thiện đáng kể. Đến năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của vùng đạt 7,31%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đứng thứ 3/6 các vùng kinh tế. Tổng giá trị tăng thêm năm 2024 của cả 3 khu vực là 7,46%, trong đó khu vực I tăng 3,85%, khu vực II tăng 11,18%, khu vực III tăng 7,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,65%. Thu nhập bình quân đầu người toàn vùng năm 2024 đạt 80,7 triệu đồng/người/năm, đứng thứ 5/6 vùng trên cả nước[2]. Các chỉ số về giáo dục, y tế, nước sạch, điện lưới trong khu vực nông thôn được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt, tinh thần đổi mới sáng tạo lan tỏa sâu rộng, khi nhiều thanh niên và trí thức trẻ trở về quê lập nghiệp bằng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, du lịch cộng đồng và thương mại điện tử. Điều này cho thấy chính sách phát triển vùng đã bắt đầu tạo nền tảng khuyến khích lực lượng lao động trẻ gắn bó với địa phương.

Ảnh: Mô hình trồng dưa lưới tiết kiệm nước thích ứng với biến đổi khí hậu tại Đồng Tháp (Nguồn: VOV)
3. Những thách thức trong quá trình phát triển
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn đối diện với nhiều hạn chế và thách thức trong quá trình phát triển. Trước hết, quy mô kinh tế của vùng còn nhỏ so với tiềm năng và so với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Hiện nay, kinh tế vùng chỉ chiếm khoảng 12% GDP cả nước; thu nhập bình quân đầu người tương đương 67% mức trung bình quốc gia[3]. Cơ cấu kinh tế tuy chuyển dịch nhưng nền tảng công nghiệp còn yếu, chủ yếu tập trung vào chế biến nông - thủy sản quy mô vừa và nhỏ, thiếu các ngành công nghiệp công nghệ cao có khả năng tạo đột phá. Hệ thống dịch vụ logistics, thương mại, tài chính chưa phát triển mạnh để hỗ trợ nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn.
Kết cấu hạ tầng, dù cải thiện đáng kể, vẫn còn nhiều điểm nghẽn. Một số dự án giao thông trọng điểm còn chậm tiến độ do vướng mắc về giải phóng mặt bằng hoặc thiếu nguồn vốn ổn định. Hạ tầng số ở khu vực nông thôn chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến tiến trình chuyển đổi số trong sản xuất và quản trị. Hệ thống thủy lợi cần tiếp tục nâng cấp để ứng phó hiệu quả với các hình thái thiên tai ngày càng cực đoan.
Đặc biệt, thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt hơn. Đồng bằng sông Cửu Long được xếp vào nhóm khu vực chịu tác động nặng nề nhất thế giới bởi biến đổi khí hậu. Sạt lở bờ sông, bờ biển diễn biến phức tạp; sụt lún đất ngày càng nghiêm trọng; tài nguyên nước suy giảm cả về số lượng và chất lượng do tác động thượng nguồn và sự khai thác nội vùng thiếu bền vững. Các hiện tượng hạn hán, xâm nhập mặn từng đạt mức kỷ lục vào các năm 2016, 2020 và mùa khô năm 2023, gây thiệt hại lớn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Mặc dù các công trình ứng phó đã được đầu tư, song về lâu dài Đồng bằng sông Cửu Long vẫn bị xếp vào một trong những đồng bằng chịu tác động nặng nề nhất thế giới bởi biến đổi khí hậu, tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh nguồn nước, an ninh lương thực[4].
Chất lượng nguồn nhân lực cũng là vấn đề đáng quan tâm. Trong nhiều năm, Đồng bằng sông Cửu Long phải đối diện tình trạng “chảy máu lao động”, khi hàng triệu lao động trẻ di cư đến các đô thị lớn tìm việc làm. Điều này dẫn đến thiếu hụt lao động địa phương, nhất là lao động có tay nghề, đồng thời tạo ra các vấn đề xã hội như già hóa dân số ở nông thôn, thiếu lao động mùa vụ... Chỉ số phát triển con người (HDI) của nhiều tỉnh còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo tuy giảm nhưng vẫn cao hơn bình quân, đặc biệt trong các cộng đồng dân tộc thiểu số Khmer. Điều đó đòi hỏi các chính sách phát triển phải bền vững gắn với nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm sự công bằng và bao trùm xã hội.
Ngoài ra, năng lực quản trị và liên kết thực thi còn hạn chế. Mặc dù Hội đồng Điều phối vùng đã được thành lập, nhưng sự phối hợp giữa các tỉnh chưa thật sự nhịp nhàng. Tình trạng cạnh tranh thu hút dự án thiếu lành mạnh, không chia sẻ thông tin quy hoạch vẫn xuất hiện, dẫn đến trùng lặp hoặc mâu thuẫn trong quy hoạch và sử dụng nguồn lực. Việc phân cấp, phân quyền cho vùng trong các lĩnh vực tài chính, đầu tư còn hạn chế, khiến nhiều sáng kiến liên tỉnh khó triển khai hiệu quả.
4. Phương hướng phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới
Để Nghị quyết 13-NQ/TW tiếp tục phát huy hiệu quả, ngoài nguồn lực đầu tư, yêu cầu cấp thiết là phải tạo đột phá trong mô hình quản trị vùng và phát huy vai trò của mọi chủ thể. Trước hết, cần hoàn thiện thể chế điều phối vùng với khung pháp lý có tính ràng buộc cao, thậm chí xem xét luật hóa cơ chế vùng Đồng bằng sông Cửu Long để tạo cơ sở cho việc phối hợp đồng bộ trong quy hoạch, phân bổ nguồn lực và triển khai các dự án liên tỉnh. Nguồn ngân sách trung ương cần dành tỷ lệ cố định cho các dự án hạ tầng mang tính liên vùng nhằm bảo đảm nguồn lực ổn định, lâu dài.
Cùng với đó, các địa phương trong vùng phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, xác định lợi thế so sánh của mình để tham gia sâu vào cấu trúc liên kết vùng như: Trung tâm năng lượng tái tạo và kinh tế biển Cà Mau; trung tâm logistics và công nghiệp phụ trợ Cần Thơ và Vĩnh Long; Đồng Tháp và An Giang tiếp tục phát huy thế mạnh nông nghiệp công nghệ cao và du lịch sinh thái. Việc các địa phương phối hợp hài hòa theo định hướng chung sẽ hình thành mạng lưới phát triển cộng hưởng, tạo ra sức mạnh tổng hợp vượt trội.
Doanh nghiệp cần được xem là lực lượng trung tâm thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Môi trường kinh doanh phải tiếp tục cải thiện theo hướng minh bạch, thông suốt; ưu tiên thu hút các dự án chế biến sâu, năng lượng sạch, hạ tầng logistics, dịch vụ giáo dục và y tế chất lượng cao. Doanh nghiệp nông nghiệp cần được khuyến khích đổi mới sáng tạo, gắn kết với nông dân để hình thành các chuỗi giá trị quy mô lớn, nâng cao năng suất và tăng giá trị gia tăng.
Mọi chính sách phát triển phải hướng đến con người; đầu tư mạnh cho giáo dục, đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng số là điều kiện tiên quyết để Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với mô hình phát triển mới. Việc hỗ trợ khởi nghiệp tại địa phương, chăm lo an sinh xã hội và nâng cao chất lượng dịch vụ công, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số, sẽ tạo nền tảng để người dân tin tưởng gắn bó với vùng, trở thành động lực nội sinh cho phát triển bền vững.
Theo Nghị quyết số 13-NQ/TW, đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hướng đến tương lai, Đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng đất thịnh vượng, sinh thái, văn minh và bền vững. cần kiên trì các định hướng chiến lược đã được xác định. Đó là vùng đất mang đậm bản sắc văn hóa sông nước, có trình độ phát triển khá so với cả nước, cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại và đặc biệt thích ứng an toàn trước biến đổi khí hậu[5].
Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long phải dựa trên nguyên tắc hài hòa với tự nhiên - tinh thần xuyên suốt của Nghị quyết 120-NQ/TW và Nghị quyết 13-NQ/TW. Vùng cần chuyển từ tư duy “trị thủy” sang “thuận thủy”, chấp nhận ngập lũ theo chu kỳ để bồi đắp phù sa, tái tạo nguồn thủy sản và thích ứng linh hoạt với điều kiện thủy văn. Ở ven biển, thay vì ngăn mặn tuyệt đối, các mô hình canh tác chịu mặn như tôm - lúa, cua, lúa chịu mặn phải được mở rộng. Cùng với đó là phát triển canh tác theo mùa nước, theo phân vùng sinh thái, kết hợp bảo vệ rừng ngập mặn, các khu dự trữ sinh quyển và vùng Ramsar như những “lá chắn xanh” trước biến đổi khí hậu.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng phải hướng tới vị thế trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững của khu vực. Điều này đòi hỏi chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, phát triển đầy đủ chuỗi giá trị ngành hàng từ giống, canh tác, thu hoạch đến chế biến và thị trường. Đẩy mạnh chế biến sâu, giảm xuất thô lúa gạo, trái cây, thủy sản là giải pháp quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng. Xây dựng thương hiệu nông sản xanh - sạch, đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường cao cấp và đa dạng hóa ngành hàng giúp vùng tăng sức chống chịu trước biến động thị trường và khí hậu.
Phát triển năng lượng sạch và kinh tế biển phải trở thành động lực đột phá. Vùng có tiềm năng lớn về điện gió, điện mặt trời nhưng cần quy hoạch đồng bộ để phát triển hài hòa với lưới điện quốc gia và gắn với công nghiệp chế tạo thiết bị tại chỗ. Các khu kinh tế ven biển như Năm Căn (Cà Mau) hay Định An (Vĩnh Long) phải được phát triển theo mô hình tích hợp cảng biển, chế biến và đô thị ven biển, gắn với nuôi trồng thủy sản bền vững và bảo vệ môi trường. Mục tiêu đến 2045 là hình thành “vành đai kinh tế biển” hiện đại.
Song song, vùng cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tận dụng cơ chế hợp tác Mekong và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu theo chuẩn kinh tế xanh. Cuối cùng, phát triển phải luôn gắn với bảo tồn văn hóa sông nước - từ văn minh miệt vườn, chợ nổi đến đờn ca tài tử, lễ hội Óoc-Om-Bóc - nhằm tạo sức hút mềm và xây dựng một Đồng bằng sông Cửu Long thịnh vượng, bền vững.
[1] Thông tấn xã Việt Nam (2024), “Thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW: Tạo bứt phá mới cho Đồng bằng sông Cửu Long”, VietnamPlus, ngày 05/07/2024
[2] Hoàng Lan, Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2024 của vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 7,31%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, https://baosoctrang.org.vn/thoi-su/202501/toc-do-tang-truong-kinh-te-nam-2024-cua-vung-dong-bang-song-cuu-long-dat-731-cao-hon-muc-binh-quan-chung-cua-ca-nuoc-7a628ed/
[3] Cảnh Nghi (2023), “Thúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh và bền vững”, Tạp chí Kinh tế Môi trường
[4] Thông tấn xã Việt Nam (2024), “Thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW: Tạo bứt phá mới cho Đồng bằng sông Cửu Long”, VietnamPlus, ngày 05/07/2024.
