Một số điểm nổi bật của Luật Khoa học, công nghệ

và Đổi mới sáng tạo

Ảnh minh họa, nguồn Báo Điện tử Chính phủ

Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo được Quốc hội thông qua vào ngày 27/6/2025, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2025; riêng các quy định về tài chính sẽ có hiệu lực sớm hơn, từ ngày 01/7/2025. Đây là văn bản pháp lý rất quan trọng, thể hiện sự chuyển đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý, nhằm kiến tạo một môi trường năng động, khuyến khích sự dấn thân của Nhà nước và doanh nghiệp vào các lĩnh vực công nghệ cao và chiến lược, tạo động lực bứt phá cho nền kinh tế. Những nội dung cơ bản và điểm nổi bật của Luật gồm:

1. Vai trò và vị thế của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

Luật xác định KHCN&ĐMST là động lực then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Đây là một đột phá quan trọng hàng đầu để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại và đưa đất nước phát triển bứt phá. KHCN &ĐMST được kỳ vọng đóng góp 4% vào tăng trưởng GDP, trong đó KHCN chiếm 1%, ĐMST chiếm 3%.

Luật thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển khi lần đầu tiên, "đổi mới sáng tạo" (ĐMST) là một lĩnh vực độc lập, được pháp điển hóa và đặt ngang hàng với "khoa học công nghệ" (KHCN) trong hệ thống pháp luật quốc gia. ĐMST là hoạt động của toàn dân, mọi tổ chức, tập trung vào việc tạo ra hoặc cải tiến sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh, quy trình quản lý nhằm nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Phạm vi điều chỉnh của luật được mở rộng bao trùm các mô hình tổ chức mới, cơ chế sản xuất sáng tạo và phương thức quản trị đổi mới trong cả khu vực công và tư. Các hoạt động như sáng kiến cộng đồng, đổi mới trong dịch vụ công, và ứng dụng công nghệ số chính thức là một phần cấu thành của hệ sinh thái sáng tạo quốc gia.

2. Đổi mới tư duy quản lý nhà nước.

Luật chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm, tập trung vào quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro đi kèm với quản trị rủi ro. Trọng tâm quản lý nhà nước không còn là cách thức thực hiện mà là kết quả nghiên cứu mang lại và tác động thực tiễn. Cách tiếp cận này phù hợp với đặc trưng linh hoạt và thử nghiệm liên tục của lĩnh vực KHCN&ĐMST. Bộ KH&CN có trách nhiệm đo lường hiệu quả tổng thể các chương trình, nhiệm vụ KHCN, lấy kết quả làm căn cứ phân bổ nguồn lực và cấp tiếp các đề tài nếu chứng minh được hiệu quả.

Điểm đáng chú ý là cơ chế "Thử nghiệm có kiểm soát" (Sandbox) và chấp nhận rủi ro. Luật lần đầu tiên thiết lập cơ chế "thử nghiệm có kiểm soát" (sandbox), cho phép triển khai các mô hình, công nghệ hoặc chính sách mới trong khung thời gian và phạm vi giới hạn, tạo điều kiện cho các sáng kiến công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, blockchain, công nghệ y tế và giáo dục số được vận hành trong môi trường pháp lý an toàn trước khi áp dụng rộng rãi.

Quy định rõ ràng về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, phát triển KHCN&ĐMST. Tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ được miễn trách nhiệm hành chính, dân sự đối với thiệt hại gây ra cho Nhà nước nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình, quy định và không có hành vi gian lận, cố ý vi phạm pháp luật, không sử dụng sai mục tiêu, phạm vi kinh phí. Họ cũng không phải hoàn trả kinh phí nếu kết quả không đạt mục tiêu đề ra. Luật quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những rủi ro xảy ra trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Điều này góp phần nuôi dưỡng tinh thần dấn thân, sáng tạo và sẵn sàng thử nghiệm.

Về quyền sở hữu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Luật đã tháo gỡ điểm nghẽn về cơ chế sở hữu kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước. Tổ chức chủ trì được mặc nhiên giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu mà không cần xin phép lại cơ quan cấp trên (trừ một số trường hợp đặc biệt). Điều này khuyến khích ứng dụng thực tiễn và tăng tính minh bạch trong quản lý tài sản trí tuệ. Người làm nghiên cứu được hưởng tối thiểu 30% từ phần thu nhập thu được do kết quả nghiên cứu mang lại khi thương mại hóa và được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với khoản thu nhập này.

3. Tập trung vào công nghệ chiến lược và doanh nghiệp

Luật định nghĩa công nghệ chiến lược là công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và đáp ứng một trong các điều kiện như tạo ra sự phát triển đột phá, chất lượng cao về kinh tế - xã hội, đóng vai trò nền tảng cho các ngành công nghiệp, dịch vụ hoặc có tầm quan trọng chiến lược đối với quốc phòng, an ninh. Các sản phẩm công nghệ chiến lược phải có tỷ lệ nội địa hóa cao, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, hoặc có tác động lan tỏa tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội hay quốc phòng, an ninh. Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược.

Luật xác lập định hướng rõ ràng về việc chuyển từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ lõi sang làm chủ các công nghệ chiến lược có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia. Ngân sách nhà nước đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sẽ được ưu tiên phân bổ khoảng 40-50% để thực hiện các nhiệm vụ làm chủ công nghệ chiến lược, thay vì dàn trải như trước.

Chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp. Doanh nghiệp được trao quyền và khuyến khích mạnh mẽ để đầu tư cho nghiên cứu phát triển, không chỉ bằng nguồn lực của mình mà còn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thông qua các chính sách "mồi" tài chính (Nhà nước chi 1 đồng để thu hút 3-4 đồng từ doanh nghiệp). Ngân sách nhà nước tài trợ cho nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp có thể lên tới 70-80%. Chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, không còn giới hạn mức tối đa (trước đây khoảng 1% doanh thu). Các khoản chi này còn được tính khấu trừ thuế với hệ số ưu đãi vượt trội là 150% và có thể lên đến 200% nếu đầu tư vào công nghệ chiến lược. Doanh nghiệp có lãi được trích tối đa 5% lợi nhuận trước thuế để lập quỹ đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo. Nhà nước ưu tiên hỗ trợ phát triển công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược. Doanh nghiệp nhà nước được áp dụng cơ chế đặc biệt để giải mã công nghệ, mua bí quyết công nghệ, bao gồm việc chỉ định thuê chuyên gia, mua công nghệ/sản phẩm/thiết bị nước ngoài, triển khai dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế, và mua lại doanh nghiệp/phòng thí nghiệm/trung tâm R&D để sở hữu bí quyết công nghệ.

4. Phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng

Chuyển nghiên cứu cơ bản về các cơ sở giáo dục đại học, phù hợp với thông lệ quốc tế, coi các trường đại học là trung tâm nghiên cứu cơ bản do tập trung nhiều nhân lực trẻ. Đồng thời, các viện nghiên cứu vẫn có thể tiếp tục thực hiện nghiên cứu cơ bản phù hợp thế mạnh. Nhà nước có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài về KHCN&ĐMST, với các ưu đãi đặc biệt về tài chính, phi tài chính, điều kiện làm việc, nhà ở, và an sinh xã hội. Luật cũng quy định về "Tổng công trình sư" - người có uy tín, kinh nghiệm, năng lực vượt trội để chủ trì các chương trình, nhiệm vụ đặc biệt, và được hưởng các ưu đãi đặc biệt.

Đầu tư mạnh vào hạ tầng KHCN&ĐMST, bao gồm các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, phòng thí nghiệm dùng chung, hạ tầng kỹ thuật hiện đại, phát triển kết nối hạ tầng giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, phòng thí nghiệm dùng chung, hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ phát triển công nghệ chiến lược. Các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ chuyên biệt trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, hoặc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị cho cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu dùng chung để thu hút doanh nghiệp cùng tham gia khai thác, vận hành sẽ được Nhà nước hỗ trợ. Luật Đất đai cũng được bổ sung để ưu tiên sử dụng đất cho xây dựng phòng thí nghiệm, cơ sở ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm, và hạ tầng dùng chung hỗ trợ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khoa học và công nghệ, trung tâm nghiên cứu và phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo.

5. Tài chính và quỹ phát triển

Nhà nước bảo đảm chi cho KHCN&ĐMST hằng năm tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước trong nguồn tổng chi tối thiểu 3% ngân sách nhà nước cho phát triển KHCN&ĐMST và chuyển đổi số, và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Việc phân bổ ngân sách nhà nước sẽ ưu tiên các nhiệm vụ, chương trình có quy mô lớn, tính liên ngành, liên vùng, có sự tham gia của doanh nghiệp và tạo hiệu ứng lan tỏa công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ chiến lược, công nghệ mới nổi có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh quốc gia.

Áp dụng cơ chế khoán chi linh hoạt đến sản phẩm cuối cùng hoặc khoán chi từng phần cho các nhiệm vụ KHCN&ĐMST sử dụng ngân sách nhà nước. Tổ chức chủ trì được tự chủ sử dụng kinh phí và điều chỉnh các khoản mục chi.

Cho phép thành lập và hoạt động các Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia và địa phương để đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hoạt động theo nguyên tắc thị trường, chấp nhận rủi ro có kiểm soát và không áp dụng yêu cầu bảo toàn vốn theo từng năm tài chính hoặc từng dự án cụ thể. Doanh nghiệp có lãi được trích tối đa 5% lợi nhuận trước thuế để lập quỹ đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo. Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán chuyên biệt cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

6. Chuyển đổi số toàn diện

Nhà nước thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong lĩnh vực KHCN&ĐMST thông qua phát triển đồng bộ hạ tầng số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, số hóa dữ liệu và tự động hóa quy trình nghiệp vụ. Đầu tư xây dựng và duy trì Nền tảng số quản lý KHCN&ĐMST quốc gia và Hệ thống thông tin quốc gia về KHCN&ĐMST để quản lý, theo dõi, đánh giá, chia sẻ công khai kết quả hoạt động. Việc cập nhật dữ liệu định kỳ là trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách công.

7. Thúc đẩy Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Phát triển KHCN&ĐMST trong một hệ sinh thái hoàn chỉnh và cân bằng, bao gồm thể chế, hạ tầng, nhân lực và các chủ thể như doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, nhà nước, nhà nghiên cứu, các định chế tài chính, tổ chức trung gian, trung tâm ĐMST, các quỹ nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ và đầu tư mạo hiểm. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, hỗ trợ thông tin, tiêu chuẩn, sở hữu trí tuệ, ban hành cơ chế tài chính ưu đãi, và thu hút nhân tài. Luật ghi nhận và đề cao vai trò của các chủ thể, từ viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức trung gian đến cộng đồng công nghệ mở và các tổ chức phi lợi nhuận. Luật thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc giải quyết các vấn đề đa lĩnh vực liên quan đến KH CN&ĐMST.

Doanh nghiệp được khuyến khích tham gia và là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo, kết nối hiệu quả với cơ sở giáo dục, nghiên cứu, tổ chức trung gian và cơ quan nhà nước. Được đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng với các chính sách, chương trình, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước. Được ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung; ưu tiên sử dụng trang thiết bị nghiên cứu tại phòng thí nghiệm dùng chung. Được khuyến khích tham gia sử dụng và đóng góp dữ liệu, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nguồn mở.

Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo mở ra không gian thể chế mới, thúc đẩy sáng tạo toàn xã hội, khuyến khích thương mại hóa nghiên cứu, phân quyền hiệu quả và gắn kết nghiên cứu với thị trường, đồng thời tiếp cận các xu hướng toàn cầu về đổi mới sáng tạo. Luật được thiết kế để kiến tạo một môi trường pháp lý mở, linh hoạt, và khuyến khích mạnh mẽ sự dấn thân vào các lĩnh vực công nghệ cao và chiến lược, với doanh nghiệp là trung tâm và sự bảo vệ cần thiết cho các chủ thể nghiên cứu. Đồng thời, định hình lại vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp trong việc thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là đối với các dự án công nghệ chiến lược./.