Một số nhà sử học nước ngoài hay nhà nghiên cứu người Việt Nam ở nước ngoài có những nhận xét khá “ưu ái” về Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật Bản dựng lên ở Việt Nam sau cuộc đảo chính ngày 09/3/1945, nhưng chính những người trong cuộc, chính những người từng tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim lại có cái nhìn khác
Đêm ngày 10/3/1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Công việc đầu tiên của Nhật là dựng lên chính phủ thân Nhật và tuyên truyền: “Nhật đánh Pháp là để trao trả độc lập cho Việt Nam”, xem đây là cách “mắc mồi tốt cái gọi là độc lập cho người bản xứ để động viên nhân dân vào chiến tranh”[1].
Nhà sử học Nhật Bản, tiến sĩ Masaya Shiraishi chỉ rõ: “Nhật Bản cho ba vương quốc Đông Dương được độc lập trên danh nghĩa nhưng thực tế tiếp quản chức năng thực dân từ kẻ đi trước”[2].
Bảo Đại được Nhật cho giữ nguyên ngôi vua. Vậy là ông ta từ vua bù nhìn của Pháp tức khắc trở thành vua bù nhìn của Nhật. Ngày 11/3/1945, Bảo Đại ra Tuyên cáo Việt Nam độc lập công khai thay thầy đổi chủ: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản Đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước cho đạt được mục đích như trên”[3].
Ông Trần Trọng Kim (Ảnh tư liệu)
Trong diễn văn “tân kiến”, viên Tư lệnh quân Nhật ở Đông Dương đã đặt ra những yêu cầu đối với Bảo Đại: “Chúng tôi cần được đế quốc Việt Nam tận tâm hiệp tác về phương diện tinh thần cũng như vật chất… Điều kiện thứ nhất để thực hiện sự hợp tác ấy là dân tộc Việt Nam phải hiểu rõ ý chí của nước Nhật Bản, phải thành tâm hợp tác với nước chúng tôi… phải tiếp tục làm các con đường quân dụng mà nước Việt Nam đã khởi công năm 1945; phải giữ nguyên các thuế khóa cần thiết để có tiền mà làm các công việc…, tôi muốn rằng về mặt chánh trị và hành chánh, sự cải cách ở trong phạm vi tối cần thiết đối với sự sắp đặt chiến lược… Chúng tôi mong Hoàng triều chánh phủ cải tổ rất mau chóng việc chánh trị trong nước để các dự án về chiến lược của chúng tôi được thực hành dễ dàng”. Đáp từ viên Tư lệnh này, Bảo Đại đã chấp nhận thực thi tất cả những yêu cầu do y đưa ra[4].
Nhưng phải loay hoay hơn 1 tháng Bảo Đại mới lập được Nội các mới - Nội các Trần Trọng Kim vào ngày 17/4/1945. Bản thân Trọng Kim vốn là con bài bí mật đã chuẩn bị từ trước của phát xít Nhật. Thấy Trần Trọng Kim đã bị Pháp nghi ngờ, hạ tuần tháng 10/1943, Hiến binh Nhật đã đưa ông ta vào Sài Gòn rồi sang Singapore, sau đó sang Bangkok (Thái Lan) để rồi sau khi đảo chính lật Pháp, tình báo Nhật lại đưa ông ta trở về lại Sài Gòn, rồi ra Huế gặp Tối cao cố vấn Masayuki Yokoyama nhận lập chính phủ. Nội các Trần Trọng Kim ra Tuyên cáo: “Thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành, thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua”[5].
Đúng như nhận xét của Giáo sư sử học Nhật Bản Furuta Motoo: “Đối với họ [tức phát xít Nhật] thì Bảo Đại ra tuyên bố “độc lập” và lập một chính phủ là dễ lừa bịp được dư luận, mà không có thế lực thực chất gì cả, thế là đầy đủ rồi”[6].
Nội các Trần Trọng Kim có mấy điểm “đặc biệt” sau đây:
Một là, gồm toàn những nhân vật chưa hề làm chính trị, không một ông Bộ trưởng nào từ hàng quan lại ra. Họ đều là những trí thức có tên tuổi (4 luật sư, 4 bác sĩ, 2 giáo sư, 1 kỹ sư). Như nhận xét của giáo sư Trần Văn giàu: “Phải công nhận rằng thành phần của nội các Trần Trọng Kim có gieo một số ảo vọng trong đầu óc một số người chân thật”[7].
Hai là, nội các không có các Bộ Quốc phòng, Công an, Tuyên truyền. Trần Trọng Kim thừa nhận là bấy giờ: “các cơ quan trọng yếu về việc chính trị như công an, sở tuyên truyền công văn hãy còn ở trong tay người Nhật cả”[8].
Ông giải thích: “Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Ở kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an, tức lính khố xanh cũ và sáu bảy chục khẩu súng cũ đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ.
Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì độ chừng vài chục người”, và “Việc phòng bị do quân Nhật Bản đảm nhiệm hết cả… nếu mình đặt Bộ Quốc phòng thì chỉ có danh mà không có thực”[9].
Ba là, không nắm được bất kỳ nguồn lực quan trọng nào của đất nước. Nhất là về tài chính, đến mức như ông Vũ Đình Hòe cho biết: “Các Bộ trưởng, cả ông Tổng trưởng nội các đi địa phương phải đấu tranh gay go mới được cấp đủ xăng dầu mỗi lần đi”[10].
Trần Trọng Kim duyệt đội danh dự (Ảnh tư liệu)
Bốn là, nội các tồn tại trong một thời gian rất ngắn ngủi, kể từ ngày 17/4/1945 Bảo Đại và Masayuki Yokoyama phê duyệt danh sách các thành viên do Trần Trọng Kim đệ trình, nhưng đến ngày 7/5/1945 nội các mới có phiên họp đầu tiên bàn việc ra mắt vào ngày hôm sau 8/5, và đã kết thúc hoạt động ở phiên họp cuối cùng vào ngày 23/8/1945.
Trong Lời tuyên cáo, Nội các Trần Trọng Kim hứa hẹn thật nhiều, rằng sẽ xóa bỏ những hình án bất công, trả tự do cho tù chính trị, thu nhận những nhà ái quốc, giải quyết nạn đói ở miền Bắc, định lại thuế khóa cho công bằng, thống nhất pháp luật trong toàn quốc, chống sự lạm quyền, bài trừ tham nhũng, nâng cao trình độ sinh hoạt của dân chúng[11].
Thực tế thì chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được những gì?
Về chính trị, việc lập và kiểm soát nội các vẫn thuộc quyền của một ông vua hết làm tay sai cho Pháp lại chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Chính phủ này không quy tụ được khối đoàn kết toàn dân tộc, không đạt được mục đích “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia”. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Mặt trận Việt Minh đã và đang quy tụ được sức mạnh toàn dân. Trần Trọng Kim thừa nhận: “Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia, lính bảo an ở các nơi, phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa… Ngay những đạo Thanh niên tiền tuyến do Bộ Thanh niên lập ra, cũng có ý ngả về Việt Minh”[12].
Về tổ chức nhà nước, tuy có sự thay đổi tên gọi Kỳ của ba kỳ thành ra Bộ (Bắc Kỳ đổi thành Bắc bộ, Trung Kỳ đổi thành Trung bộ, Nam kỳ đổi thành Nam bộ), đổi Tổng đốc thành Tỉnh trưởng, có chế độ Khâm sai ở Bắc bộ. Nhưng như lời của báo Thanh Nghị: “Đối với dân chúng miền Bắc, thực ra nội các hành động như một bóng ma”[13]. Ở cấp tỉnh, tuy Chính phủ này có thay đổi một vài viên quan nhưng không đủ để thiết lập một bộ máy mới có năng lực. Như chính lời của Trần Trọng Kim nhận xét: “Quan lại ở các tỉnh, phần nhiều là những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ không mấy người có đủ tư cách làm người công chức một nước tự chủ. Muốn thay đổi quan lại là một việc rất khó”[14]. Trên báo Thanh Nghị số ra ngày 14/7/1945, Bùi Tường Chiểu nói thẳng: “Đảo chính đến nay đã được 4 tháng, những nhời hô hào trừng thanh lại trị đã tốn nhiều giấy mực. Vậy mà ở các tỉnh, các hàng quan lại vẫn còn hành động một cách quá đáng, lại còn thừa cơ trong lúc nhiễu nhương mà sách nhiễu lương dân hơn hồi Pháp thuộc”. Với Hội đồng dân biểu, tuy có lập ra trên cơ sở chỉ định một số người nhằm tạo chỗ dựa về mặt hành chính và chính trị cho chính phủ, nhưng trên thực tế thì Hội đồng này chỉ “có công bố tên, có việc thành lập nhưng chưa hoạt động được gì”[15].
[1] Bộ Quốc phòng Nhật Bản: Nhật ký chiến tranh bí mật của đại bản doanh. Dẫn theo Văn Tạo - Furuta Motoo (chủ biên): Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam. Những chứng tích lịch sử. Viện Sử học xuất bản, 1995, tr.33.
[2] Masaya Shiraishi: Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam 1951-1987. Nxb. Khoa học xã hội – Trung tâm kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (VAPEC). Hà Nội, 1994, tr.21.
[3] Dẫn theo Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858 - 1945. Tập IV: 1936 - 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.228.
[4] Dẫn theo Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam. Từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công. Tập 3: 1939-1945. Nxb. Sử học. Hà Nội, 1963, tr.196.
[5] Nội các Trần Trọng Kim: Lời tuyên cáo của Nội các. Lưu Trung tâm lưu trữ Trung ương I.
[6] Văn Tạo và Furruta Motoo (1995), Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam. Những chứng tích lịch sử. Viện sử học xuất bản, tr.37.
[7] Trần Văn Giàu. Sđd, tr.209.
[8] Trần Trọng Kim: Một cơn gió bụi (Kiến văn lục). Nxb. Vĩnh Sơn, 1960, tr.56.
[9] Trần Trọng Kim. Sđd, tr.57-58.
[10] Vũ Đình Hòe: Hồi ký. Nxb. Văn hóa. Hà Nội, 1995, tr.279-280.
[11] Nội các Trần Trọng Kim: Lời tuyên cáo của Nội các. Lưu Trung tâm lưu trữ Trung ương I.
[12] Trần Trọng Kim. Sđd, tr.85-86.
[13] Trần Văn Giàu. Sđd, tr.213
[14] Trần Trọng Kim. Sđd, tr.56.
[15] Phan Anh: Hồi ký. Chương Từ nền tảng gia đình. Thiếu thời và thời thanh niên sôi nổi 1911-1945. Bản đánh máy chưa xuất bản, do bà Đỗ Hồng Chỉnh cung cấp.