Đồng chí Võ Văn Tần (21/8/1891-28/8/1941) sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo giàu lòng yêu nước. Ông sớm giác ngộ cách mạng và hoạt động năng nổ trong các phong trào đấu tranh. Từ khi tham gia hoạt động cách mạng cho đến khi hy sinh ngày 28/8/1941, đồng chí Võ Văn Tần được giao phó nhiều trọng trách quan trọng và luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuộc đời hoạt động cách mạng kiên cường của đồng chí Võ Văn Tần là tấm gương đạo đức sáng ngời của nhân dân Việt Nam và được lịch sử ghi nhận

Người cộng sản kiên trung, hiến dâng thân mình vì độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân

Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, được chứng kiến chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của thực dân Pháp, nên đồng chí Võ Văn Tần căm thù giặc sâu sắc, tham gia nhiệt tình, sôi nổi các phong trào yêu nước chống giặc ngoại xâm. Những năm 1924-1925, đồng chí Võ Văn Tần hoạt động trong tổ chức “Hội kín Nguyễn An Ninh”, đấu tranh phản đối chính sách áp bức bóc lột tàn bạo, hà khắc của thực dân Pháp và tay sai; bênh vực quyền lợi của quần chúng nhân dân.

Năm 1926, đồng chí Võ Văn Tần gia nhập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tiền thân của Đảng Cộng Sản Đông Dương, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo. Cuối năm 1929, ông tham gia An Nam Cộng sản Đảng và trở thành Bí thư đầu tiên của huyện Đức Hòa (Chợ Lớn).

Ngày 04/6/1930, với cương vị Bí thư Huyện ủy Đức Hòa, đồng chí Võ Văn Tần cùng đồng chí Châu Văn Liêm - Bí thư liên tỉnh ủy Gia Định - Chợ Lớn (Chợ Lớn) trực tiếp lãnh đạo dân xã Tân Phú Thượng, huyện Đức Hòa biểu tình đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống sưu cao thuế nặng, chống lính vào làng đàn áp nhân dân. Thực dân Pháp nổ súng đàn áp, khủng bố dã man phong trào cách mạng. Do tương quan lực lượng bất lợi cho cách mạng, phong trào đấu tranh bị tổn thất nặng nề. Đồng chí Châu Văn Liêm và một số đồng chí khác hy sinh, đồng chí Võ Văn Tần thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù, nhưng bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.

Sau cuộc biểu tình ngày 04/6/1930, nhiều cơ sở đảng ở Gia Định, Chợ Lớn bị vỡ, nhiều đồng chí bị bắt, bị tù đày. Trước tình hình đó, đồng chí Võ Văn Tần và các đồng chí cùng chí hướng đã gan dạ, mưu trí, sáng tạo, bền bỉ tìm mọi cách củng cố phong trào cách mạng, nhờ đó các cơ sở cách mạng được duy trì và hoạt động trở lại.

Năm 1931, đồng chí Võ Văn Tần được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, sau đó được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Định (năm 1932). Trong điều kiện thực dân Pháp và tay sai tăng cường khủng bố trắng hòng dìm phong trào trong biển máu, đồng chí Võ Văn Tần không ngại gian khổ, hiểm nguy tăng cường tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, củng cố phát triển cơ sở Đảng. Để phục vụ công tác tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân, đồng chí Võ Văn Tần chỉ đạo ra báo “Lao Động”.

Chân dung đồng chí Võ Văn Tần (Ảnh tư liệu)

Từ năm 1936, đồng chí Võ Văn Tần tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ và là người có công lớn trong sự hình thành hơn 600 Ủy ban hành động ở Nam Kỳ (9/1936). Năm 1937, đồng chí Võ Văn Tần được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, sau đó được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân Pháp phát xít hóa bộ máy cai trị ở Đông Dương, ra sức vơ vét sức người, sức của để cung cấp cho cuộc chiến tranh phi nghĩa mà chúng đang theo đuổi. Trước sự thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế, tháng 11/1939 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Hóc Môn - Bà Điểm. Tham dự Hội nghị có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần. Với vai trò là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, là người trực tiếp tham dự Hội nghị, đồng chí Võ Văn Tần có nhiều ý kiến đóng góp quan trọng vào các nội dung của dự thảo Nghị quyết, nhất là về chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong tình hình mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939 đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong đó có đóng góp của đồng chí Võ Văn Tần.

Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939, đồng chí Võ Văn Tần tổ chức và chủ trì hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ để cụ thể hoá chủ trương của Nghị quyết Trung ương VI. Nhờ đó, phong trào cách mạng các tỉnh Nam Kỳ có điều kiện phát triển mặc dù thực dân Pháp và tay sai tăng cường các hoạt động khủng bố.

Ngày 14/7/1940 (trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ), đồng chí Võ Văn Tần và các đồng chí trong Xứ ủy bị địch bắt tại ấp Tân Thới Trung (xã Tân Xuân, huyện Hốc Môn). Thực dân Pháp và tay sai ra sức mua chuộc, dụ dỗ nhằm khai thác bí mật của Đảng, truy bắt cán bộ cách mạng, nhưng ông không một lời khai báo. Mua chuộc, dụ dỗ không được, chúng chuyển sang tra tấn dã man, tàn bạo song ông luôn tỏ rõ ý chí bất khuất, kiên cường, nguyện hy sinh thân mình để bảo vệ bí mật của Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng. Trước thái độ cách mạng kiên quyết của đồng chí Võ Văn Tần, thực dân Pháp quyết định xử bắn ông. Đồng chí Võ Văn Tần không hề run sợ, nhụt chí. Trước khi ra pháp trường, ông để lại di bút trên tường xà lim nhà tù đế quốc với những lời lẽ khảng khái: Thà mình chết, không khi nào mình giết chết phong trào cách mạng.

Ngày 28/8/1941, các đồng chí Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Hữu Tiến... bị xử bắn tại khu vực Giếng Nước (sau Bệnh viện Hốc Môn ngày nay).

Có thể khẳng định, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù ở cương vị lãnh đạo nào, ở bất kỳ đâu, thậm chí ngay cả khi bị giam trong nhà tù của thực dân Pháp, đồng chí Võ Văn Tần luôn luôn nêu cao ý chí cách mạng kiên cường, bất khuất của người chiếncộng sản, nguyện hy sinh bản thân để bảo vệ tổ chức cơ sở đảng và phong trào cách mạng. Đồng chí Võ Văn Tần mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ noi theo, tạo niềm tin vững chắc để chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng và dân tộc.

Gương mẫu, giản dị, gần gũi đồng bào, đồng chí

Sớm tham gia hoạt động cách mạng, tự rèn luyện là chính để trưởng thành, trải qua nhiều cương vị công tác (từ cơ sở cho đến khi làm Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương), đồng chí Võ Văn Tần luôn có tác phong làm việc khoa học, đi sâu, đi sát thực tiễn và phong trào đấu tranh cách mạng.

Để khích lệ tinh thần cách mạng của các đồng chí và kêu gọi quần chúng nhân dân đấu tranh cách mạng, đồng chí Võ Văn Tần luôn gương mẫu trong mọi công việc, nhiệt tình, năng nổ, hết lòng vì nhiệm vụ, vì đồng chí, đồng bào. Với tác phong gương mẫu, lối sống giản dị, tôn trọng và gần gũi nhân dân, nên suốt những năm tháng hoạt động cách mạng, dù ở đâu, dù ở cương vị công tác nào, đồng chí Võ Văn Tần luôn nhận được sự yêu thương, giúp đỡ của đồng chí, đồng đội và quần chúng nhân dân. Đồng chí Võ Văn Tần luôn nhạy bén, nắm bắt được những vấn đề cốt lõi từ thực tiễn cách mạng, kịp thời đề xuất ý kiến với Đảng những vấn đề quan trọng về đường lối và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng.

Tượng đài đồng chí Võ Văn Tần tại  Khu di tích lịch sử Ngã tư Đức Hòa, tỉnh Long An

Với tác phong làm việc gương mẫu, đạo đức cách mạng trong sáng, nguyện hy sinh bản thân vì sự nghiệp cách mạng vĩ đại của đồng chí đã ảnh hưởng sâu sắc đến các thành viên trong gia đình, nhất là người em trai Võ Văn Ngân. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Võ Văn Tần, nên Võ Văn Ngân cũng sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng; nắm giữ nhiều trọng trách lớn của Đảng, như Bí thư Tỉnh uỷ Chợ Lớn (thay anh trai Võ Văn Tần được điều làm Bí thư Tỉnh uỷ Gia Định), Xứ uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ, là đại biểu của Xứ uỷ Nam Kỳ dự đại hội Đảng lần thứ nhất (1935) tại Ma Cao (Trung Quốc)... Phát huy truyền thống gia đình, các thế hệ con, cháu của đồng chí Võ Văn Tần luôn nỗ lực phấn đấu, không ngừng học tập và trở thành những công dân có nhiều đóng góp cho xã hội, trong đó có ông Võ Văn Định (tức Lê Thanh), nguyên Giám đốc Sở Lương thực thành phố Hồ Chí Minh.

Tấm gương học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng

Đồng chí Võ Văn Tần sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo. Lúc trẻ, ông được gia đình cho học chữ Hán và trở thành thầy giáo dạy chữ Hán. Khi làm thầy giáo làng dạy chữ Hán, ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều học sinh và gia đình họ, thấu hiểu cuộc sống cơ cực của người nông dân, nên càng căm thù giặc sâu sắc. Ông nhận thấy chữ Hán lúc đó ít thông dụng, đã chuyển sang học chữ Quốc ngữ để có thể đọc được nhiều loại sách, báo, tài liệu tiến bộ.

Để bảo đảm cho cách mạng thắng lợi, người lãnh đạo cách mạng phải trau dồi kiến thức lý luận cách mạng, phải có hiểu biết sâu rộng về mọi mặt, do đó trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Võ Văn Tần không ngừng học tập, tích cực hoạt động, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Nhờ nỗ lực học tập, ông trưởng thành nhanh chóng và được giao nhiều trọng cách quan trọng: Bí thư Huyện ủy Đức Hòa (1930), Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn (1931), Bí thư Tỉnh ủy Gia Định (1932), Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1937-1940). Dù ở bất cứ cương vị nào, đồng chí Võ Văn Tần đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đóng góp cho Đảng những vấn đề chiến lược, sách lược và cùng với Đảng giải quyết thành công nhiều vấn đề cấp bách của thực tiễn cách mạng. Tiêu biểu là những đóng góp vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939, đã tạo nền tảng, cơ sở cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở những thời kỳ sau.

Đồng chí Võ Văn Tần - một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, một cán bộ lãnh đạo cốt cán của Đảng, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Khí tiết của đồng chí Võ Văn Tần mãi là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng để thế hệ trẻ hôm nay và mai sau học tập, noi theo. Ông sống mã trong lòng nhân dân Việt Nam và được lịch sử ghi nhận.