Cơ sở triết học trong đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước đến nay là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV là “bước đột phá thứ nhất về tư duy và quan điểm kinh tế”, Đảng ta đã nhận ra một trong những nguyên nhân làm cho sức sản xuất chưa được giải phóng mạnh mẽ là chưa phát huy cao độ tính tích cực của người lao động, nhất là kinh tế tư nhân. Hội nghị đã ra nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 20 tháng 9 năm 1979 với tinh thần chính là: sử dụng lại kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước. Đây là bước thay đổi căn bản trong tư duy kinh tế của Đảng ta, tạo cơ sở để Đảng đề ra đường lối phát triển kinh tế tư nhân ngày càng đầy đủ và sâu sắc từ năm 1986 đến nay.
Đại hội VII (6-1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (1-2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên tinh thần ấy, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương có một nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân. Nghị quyết tiếp tục khẳng định, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X (4-2006) của Đảng tiếp tục xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Đại hội X cũng tiếp tục khẳng định, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.
Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
Nghị quyết Trung ương 5, khoá XIII về kinh tế tư nhân đã nhấn mạnh: xác định rõ hơn và nhấn mạnh việc phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu tất yếu, khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết xác định, phát triển kinh tế tư nhân là một phương sách quan trọng để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển và giải phóng sức sản xuất; kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân nâng vị thế của kinh tế tư nhân từ “một động lực quan trọng” lên “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế. Việc thay đổi cụm từ nhỏ ấy chứa đựng nội dung lý luận lớn, phản ánh sự chuyển biến trong tư duy phát triển. Đảng nhìn nhận rằng sức mạnh tăng trưởng, năng suất lao động và khả năng đổi mới sáng tạo của đất nước trong giai đoạn mới sẽ phụ thuộc ngày càng nhiều vào khu vực tư nhân – nơi hội tụ tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và có khả năng thích ứng nhanh với biến động của thị trường trong nước và quốc tế. Từ đó, Đảng xác định nhiệm vụ trung tâm là tạo lập môi trường thể chế thông thoáng, minh bạch, ổn định, chi phí thấp, đồng thời bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh để khu vực tư nhân thực sự trở thành động lực phát triển quốc gia.
Một điểm mới nổi bật trong Nghị quyết 68 là việc gắn phát triển kinh tế tư nhân với tiến trình đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh và bền vững. Đảng nhấn mạnh kinh tế tư nhân không chỉ là nguồn lực vật chất cho tăng trưởng mà còn là trung tâm sáng tạo, là nơi ứng dụng khoa học công nghệ mới, là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, hiệu quả và đổi mới sáng tạo. Điều này thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tư duy của Đảng về vai trò của doanh nghiệp tư nhân, khi coi đây là chủ thể trực tiếp dẫn dắt quá trình đổi mới công nghệ và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Đảng cũng đặt ra những mục tiêu cụ thể để kinh tế tư nhân thực sự phát huy vai trò động lực. Đến năm 2030, phấn đấu có khoảng hai triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đóng góp từ năm mươi lăm đến năm mươi tám phần trăm GDP, giải quyết việc làm cho hơn tám mươi phần trăm lao động xã hội. Tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế tư nhân trở thành lực lượng quan trọng bậc nhất, có sức cạnh tranh toàn cầu, tham gia sâu vào chuỗi giá trị quốc tế và đóng góp trên sáu mươi phần trăm GDP. Những mục tiêu này thể hiện niềm tin và kỳ vọng của Đảng vào khả năng vươn lên của khu vực tư nhân trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Cùng với đó, Nghị quyết 68 nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế và chính sách nhằm tháo gỡ mọi điểm nghẽn cho phát triển khu vực tư nhân. Nhà nước được xác định là nhà nước kiến tạo phát triển, phục vụ và hỗ trợ, tập trung xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nhưng không can thiệp hành chính tùy tiện vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, Đảng yêu cầu phát triển đồng bộ các loại hình doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích hình thành những tập đoàn lớn, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, song song với việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển bền vững, góp phần hình thành một cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có khát vọng vươn lên và tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Đảng cũng khẳng định phát triển kinh tế tư nhân phải gắn liền với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, với tiến bộ và công bằng xã hội, với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Kinh tế tư nhân không thể tách rời trách nhiệm xã hội, phải đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Như vậy, quan điểm của Đảng không chỉ nhìn nhận kinh tế tư nhân ở khía cạnh kinh tế mà còn đặt nó trong tổng thể phát triển toàn diện con người và xã hội.
Nghị quyết 68-NQ/TW đã thể hiện bước phát triển mới trong tư duy kinh tế của Đảng, phản ánh sự trưởng thành về nhận thức và sự thích ứng linh hoạt với yêu cầu của thời đại. Kinh tế tư nhân không còn là thành phần phụ trợ mà đã trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, là nguồn lực to lớn để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Đây không chỉ là chủ trương đúng đắn về mặt kinh tế mà còn là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về giá trị của con người, của tinh thần sáng tạo, trách nhiệm và khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Như vậy, có thể khẳng định, việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam cũng bắt nguồn từ việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, trên cơ sở nhận thức và giải quyết đúng đắn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là sự nhất quán và bước phát triển tiếp theo về đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
