Buộc phải cầm súng bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trong 30 năm, vậy Hồ Chí Minh có phải là người chủ trương chiến tranh với Pháp và Hoa Kỳ hay không ? hay khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam bị chà đạp đến mức chúng ta không còn con đường nào khác ?

Theo đuổi hòa bình - chủ trương nhất quán của lãnh tụ Hồ Chí Minh

Yêu chuộng hòa bình là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Giữa Thủ đô Hà Nội vẫn còn đó Hồ Hoàn Kiếm linh thiêng, biểu tượng về tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Thủ đô Hà Nội của Việt Nam, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập năm 1945 rất tự hào được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” năm 1999.

Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong bối cảnh Việt Nam bị người Pháp đô hộ. Chứng kiến tất cả những phong trào, xu hướng yêu nước của các bậc cha anh, dù bằng con đường phi bạo lực thì cũng đều bị người Pháp đàn áp. Mang trong mình dòng yêu nước, yêu hòa bình của cha ông ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành, lúc này lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo các phong trào đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Nhìn lại tất cả quá trình ấy là quá trình đấu tranh bền bỉ và tìm mọi cách tốt nhất để đối thoại thay vì đối đầu và chỉ sử dụng bạo lực khi không còn con đường nào khác.

Hồ Chí Minh thăm Cộng hòa Pháp năm 1946 (Ảnh tư liệu)

Kể từ ngày 9/3/1945, sau khi quân phiệt Nhật đảo chính thực dân Pháp thì thực dân Pháp lại quay sang câu kết với quân phiệt Nhật để bóc lột dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam chịu “một cổ hai tròng”, trong đó có nạn đói thảm khốc cuối năm 1944, đầu năm 1945 làm chết hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam. Thế nhưng, trước đó, khi bị quân phiệt Nhật đảo chính, nhân dân Việt Nam không những không lợi dụng cơ hội này để giết hại người Pháp mà còn giúp họ chạy trốn sự truy lùng của quân đội Nhật.

Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại chính sách khoan hồng và lòng bao dung của người Việt Nam: “Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ”[1].

Ngay khi nước Việt Nam Dan chủ Cộng hoà ra đời, trong “Bản Thông cáo đầu tiên về chính sách đối ngoại” ngày 03/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu của Việt Nam là tham gia giữ gìn hòa bình thế giới: “Đối với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài”. Tư tưởng vì hoà bình, theo đuổi hoà bình này sau đó đã được cụ thể hoá trong Lời nói đầu của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu: “…Nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại”.

Sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm tất cả mọi cách có thể để cứu vãn hòa bình, tránh tối đa việc phải cầm vũ khí. Ngày 6/3/1946, dù là nguyên thủ quốc gia song Hồ Chí Minh đã “hạ mình” chấp nhận ký với Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp tại Đông Dương Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp, theo đó: “Hai bên sẽ đình chiến ngay để mở một cuộc đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy”[2]. Ngày 14/9/1946, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại “hạ mình” ký với Bộ trưởng thuộc địa Pháp là Marius Moutet bản Tạm ước 14/9 trong đó có nội dung: “Đình chỉ mọi hành động xung đột và vũ lực” v.v…

Hồ Chí Minh với hành động bịt nòng pháo, thể hiện rõ tư tưởng và khát vọng hòa bình của Người trong chuyến thăm nước Pháp năm 1946 (Ảnh tư liệu) 

Ngay sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, ngày 22/7/1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ", và khẳng định: "Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”[3].

Ngày 25/8/1969, trước khi qua đời 1 tuần, trong bức thư trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại một lần nữa mong muốn được sống trong hòa bình của Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, Người cũng khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Nhân dân Việt Nam là sẽ chiến đấu đến cùng để có một nền hòa bình thật sự, đó là độc lập của Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hoà bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự. Nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ, để bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình”[4].

Ai gây ra 2 cuộc chiến tranh ở Việt Nam

Sau khi người Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể để cứu vãn hòa bình, nhưng tất cả những thiện chí ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không được người Pháp đáp lại. Những gì trên bàn đàm phán không thể nói với nhau, cuối cùng đã phải dùng tới súng đạn để “nói chuyện”.

Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc !

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[5].

Trong “Thư gửi thanh niên Pháp” đăng trên báo Nhân Dân số 147, tháng 11/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa mà chính phủ Pháp với sự giúp sức của Mỹ đang gây ra ở Việt Nam và kêu gọi thanh niên Pháp cùng chung sức đấu tranh cho hòa bình. Người khẳng định: “Mục đích chung của chúng ta là cộng tác thân ái với nhau trên cơ sở độc lập, tự do và hòa bình, vì lợi ích chân chính của cả hai nước chúng ta”[6].

Trước khi trận Điện Biên Phủ bắt đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ thiện chí hòa bình với người Pháp bằng thông điệp hòa bình. Trả lời phóng viên báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên nhân và tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam; tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc giải quyết vấn đề hòa bình Việt Nam. Người nói: "Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”[7]. Quan điểm về hòa bình trong giải quyết chiến tranh Việt Nam này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là gợi mở và sau đó đã trở thành đường lối nhất quán của Việt Nam trong giải quyết hòa bình ở Việt Nam, nhất là trong Hội nghị Geneva.

Được cổ vũ từ chiến thắng của Việt Nam trước thực dân Pháp xâm lược, các nước thuộc địa trên thế giới đã nổi dậy đấu tranh giành độc lập, buộc các nước thực dân phải xem xét và trao trả độc lập cho nhiều quốc gia thuộc địa trên thế giới.

(Còn nữa)

 

[2] https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-ta-486107.vov

[3] Nguyễn Quang Ngọc: Chương XI - Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ dân chủ mới (1945-1954), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, tr. 315 và 324, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006.

[4] https://tuoitre.vn/cong-bo-la-thu-bac-ho-gui-tong-thong-my-nixon-8-ngay-truoc-khi-qua-doi-20190828180102293.htm

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd, t. 7, tr. 324.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 340.