Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” nhấn mạnh: “Tăng cường công tác quản lý đảng viên, nhất là về chính trị tư tưởng, về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên Internet, mạng xã hội, đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động...; tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt đảng đối với đảng viên là sinh viên tốt nghiệp, bộ đội xuất ngũ, đảng viên đi làm ăn xa nơi đăng ký thường trú…”(1).
Công tác quản lý đảng viên có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Nội dung công tác quản lý đảng viên tập trung vào tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; việc quản lý hồ sơ đảng viên và trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú; quản lý về tư tưởng, hoạt động của đảng viên… Trong đó, hoạt động của đảng viên được thể hiện bằng những công việc, việc làm cụ thể tại cơ quan, đơn vị, địa phương nơi cư trú. Hoạt động của đảng viên còn được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm khi đảng viên tham gia mạng xã hội (like, comment, share). Vì thế, quản lý về hoạt động của đảng viên không chỉ quản lý thời gian đảng viên làm việc tại cơ quan, đơn vị mà còn quản lý hoạt động khi đảng viên đó tham gia vào các công việc có liên quan.
Để thực hiện tốt công tác quản lý về hoạt động của đảng viên, trước hết, chi bộ, chi ủy cần có kế hoạch cụ thể, xác định rõ nội dung, yêu cầu, mục tiêu, biện pháp phấn đấu, rèn luyện của từng đảng viên trong mỗi nhiệm vụ và hoạt động thực tiễn. Giao nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên trong từng thời gian; hướng dẫn, kiểm tra và giúp đỡ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hai là, mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu và nội dung tự quản lý, rèn luyện để chi ủy, chi bộ kiểm tra, giám sát thực hiện như tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… Đây là biện pháp quan trọng thể hiện tính tích cực, chủ động trong công tác quản lý đảng viên của Đảng. Kế hoạch phấn đấu và nội dung tự quản lý, rèn luyện của đảng viên phải trên cơ sở nghị quyết của chi bộ, tình hình nhiệm vụ của đơn vị và nhiệm vụ được giao; căn cứ vào tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, điểm mạnh, điểm yếu và khả năng của từng cá nhân. Kế hoạch cần cụ thể, chỉ rõ nội dung, thời gian và cần được thông qua chi bộ để bảo đảm sự chặt chẽ nghiêm túc và làm cơ sở để chi bộ theo dõi, kiểm tra, giám sát cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho từng cá nhân thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
Ba là, các cấp ủy đảng, chi bộ thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát và phân tích chất lượng đảng viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(2). Thực tiễn cho thấy, có thông qua kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao, chi ủy, chi bộ mới xem xét, đánh giá, phân tích, kết luận chính xác về trình độ, năng lực của đảng viên; thông qua kiểm tra, giám sát và duy trì thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, chi bộ có thể nắm được ý thức, trách nhiệm và trình độ hiểu biết về Đảng của đảng viên. Từ đó làm cơ sở cho việc đề ra những biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên phù hợp.
Bốn là, phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức đảng nơi công tác với tổ chức đảng nơi cư trú để quản lý tốt hoạt động của đảng viên. Nhằm quán triệt và thực hiện Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02-01-2020 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú, cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên công tác cần chủ động liên hệ giới thiệu đảng viên với tổ chức đảng nơi đảng viên cư trú; có kế hoạch kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện các nghĩa vụ công dân nơi cư trú và kịp thời biểu dương những đảng viên thực hiện tốt, nhắc nhở những đảng viên chưa thực hiện tốt các nhiệm vụ ở nơi cư trú.
Năm là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng tham gia quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Kết quả quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên có được là do sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, của nhiều tổ chức, lực lượng, trong đó vai trò của cấp ủy, chi bộ luôn là nhân tố quyết định. Vì vậy, cấp ủy các cấp, chi bộ cần thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức, các lực lượng hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ; kịp thời có chủ trương, biện pháp phát huy vai trò của các tổ chức vào công tác xây dựng chi bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên.
Sáu là, nâng cao ý thức tự quản lý của mỗi đảng viên. Tự quản lý có tính quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đảng viên nói chung và quản lý hoạt động của đảng viên nói riêng. Các biện pháp quản lý của tổ chức đảng dù chặt chẽ đến đâu, nhưng đảng viên ý thức tổ chức kỷ luật kém thì cũng không thể bao quát hết các quan hệ xã hội của từng đảng viên nên phải đề cao tự quản lý của mỗi đảng viên. Thực tế đã chứng minh, mỗi đảng viên chỉ có thể khẳng định vai trò và uy tín của mình bằng sự kiên định, trí thông minh, sự hiểu biết và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Để nâng cao tự quản lý của đảng viên, cần nâng cao trình độ mọi mặt cho đảng viên để mọi đảng viên xứng đáng là chiến sỹ tiên phong cả về lý luận và hành động thực tiễn. Từng đảng viên cần phải kiên định lập trường chính trị, kịp thời đấu tranh ngăn chặn những lệch lạc, sai trái; tích cực tham gia các hoạt động để tự hoàn thiện mình. Đảng viên cần phải gương mẫu và luôn tiên phong với mọi phong trào cách mạng theo phương châm “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”./.
Ngọc Cảnh
Chú thích và tài liệu tham khảo
(1) Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, tr.9.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H., 2011, t.15, tr.672.