Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thấy ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Người đón nhận, đi theo chủ nghĩa Lênin, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười với quyết tâm và hoài bão đấu tranh giải phóng dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức khác trên thế giới Đến với Lênin và hoàn toàn tin tưởng chủ nghĩa Lênin Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp. Tại đây, Người tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Cách mạng Tháng Mười… Từ chỗ chưa biết V.I. Lênin là ai, dần dần Người nhận ra rằng, trên thế giới đã xảy ra một sự kiện lớn lao chưa từng có: Một dân tộc đã lật đổ bọn áp bức bóc lột mình, tự tổ chức quản lý mọi công việc đất nước. Sau này, Người viết: “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình, trước đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết”[1]. Hồ Chí Minh phát hiện ra giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, của chủ nghĩa Mác - Lênin và Người quyết tâm đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên Báo L’Humanité (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra “cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi nói về sự kiện này, Người nhớ lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[2]. Cuối năm 1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc lên tiếng ủng hộ Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đồng thời cũng là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Cuối năm 1923, đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô. Sau khi Lênin từ trần (ngày 21/1/1924), Người viết bài “Lênin và các dân tộc thuộc địa”, đăng trên Báo Sự thật (Liên Xô). Người dành những tình cảm vô cùng kính trọng và xúc động viết về Lênin: “Khi còn sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Trên báo Người cùng khổ, Bác đã viết: “Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi Lênin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông lại coi Lênin là một người còn vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa, nếu tôi có thể nói như vậy. Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là sự coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Chiến hạm Rạng Đông ở Leningrad tháng 8/1957 (Ảnh: TTXVN) Mang ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga soi sáng cách mạng Việt NamKhi nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[4]. Người nhấn mạnh: “Cách mạng Tháng Mười là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới. Đó là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức do giai cấp công nhân và đội tiền phong của họ là Đảng bôn-sê-vích lãnh đạo”[5]. Người khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”[6]. Thông qua đúc kết kinh nghiệm cách mạng vô sản thế giới, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh, Việt Nam muốn có độc lập, tự do phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, vì “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất, … phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[7]. Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Cách mạng tháng Mười Nga vì “Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”[8]. Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu, học tập, vận dụng và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào yêu nước Việt Nam. Trong cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Nguyễn Ái Quốc đã dành phần 4 trong chương XII viết về Cách mạng Tháng Mười Nga dưới tiêu đề “Cách mạng Tháng Mười Nga với các dân tộc thuộc địa”. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc đã dành một phần riêng viết về Cách mạng Tháng Mười Nga dưới tiêu đề “Lịch sử cách mạng Nga”. Sau khi phân tích các cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ, Người nhấn mạnh chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, vì nó đem lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho nhân dân lao động và còn giúp đỡ các dân tộc bị áp bức làm cách mạng để tự giải phóng. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[9]. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm về Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga để tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân ta biết ơn và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của nhân dân các dân tộc Xô viết, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong các bài báo “Sự nghiệp vĩ đại của Lênin” (Báo Nhân Dân, 24/1/1952), “Lênin dạy” (Báo Nhân Dân, 21/1/1954), Hồ Chí Minh đã nhắc lại những lời dạy quý báu của Lênin nhằm động viên nhân dân ta khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1960, Hồ Chí Minh viết bài báo nổi tiếng “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác - Lênin” (Báo Nhân Dân, 22/4/1962), tiếp đó là bài “Chủ nghĩa Lênin vĩ đại muôn năm” (Báo Sự thật, Liên Xô). Trong những bài viết đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tái khẳng định ý nghĩa vĩ đại, những bài học cơ bản của Cách mạng Tháng Mười đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng như đối với nhân dân các nước trên thế giới. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang diễn ra ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[10]. Tượng đài V.I.Lenin tại Hà Nội Khẳng định giá trị những bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt NamTrong bài viết “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết tháng 11/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ 6 bài học lớn cách mạng Việt Nam được kế thừa từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga. Bài học đầu tiên, theo Người, “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”[11]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, đã chứng minh nhận định của Người là hoàn toàn đúng đắn. Bài học thứ hai là: “Thực hiện cho được liên minh công nông... Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội”[12]. Bài học thứ ba là “cần tập hợp mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ thành một mặt trận rộng rãi”[13]. Bài học thứ tư,“dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[14]. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã chứng minh tính đúng đắn của bài học này. Bài học thứ năm, “Không ngừng tăng cường và củng cố nền chuyên chính vô sản”[15]. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Bài học thứ sáu là “cần có tinh thần cách mạng triệt để, luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến cùng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[16]. Vận dụng bài học này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng ta đã khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bảo vệ thành quả cách mạng. Bài học thứ bảy là “Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”[17]. Ði theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, Ðảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, làm cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến thắng lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tiến hành đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao toàn diện chất lượng cuộc sống nhân dân. |
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.561
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.562
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.1, tr.317
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.2, tr.304
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.387
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.387
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.2, tr.304
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.388
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.2, tr.289
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.12, tr.563
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.391
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.391
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.391
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.391
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.391
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.392
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.15, tr.392