Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập[1], 15 năm sau, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (02/9/1945). Đó là dấu ấn lãnh đạo đầu tiên của Đảng và mở ra thời đại mới của dân tộc Việt Nam - thời đại Hồ Chí Minh với các kỷ nguyên độc lập, tự do; thống nhất, đổi mới và tiến tới kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình
Đường đến thời đại Hồ Chí Minh
Xét thực tiễn lịch sử Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo thì thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo ra những biến đổi về chất mang tính thời đại, mở ra thời đại mới của đất nước - thời đại Hồ Chí Minh.
Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 09/9/1969 tại Quảng trường Ba Đình khẳng định: “HỒ CHỦ TỊCH đã qua đời! Nhưng Người để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. Đó là thời đại HỒ CHÍ MINH, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[2].
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) đến trước khi Đảng ra đời, phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp phát triển rộng khắp cả nước, mạnh mẽ và liên tục với các ý thức hệ tư tưởng, phương pháp đấu tranh khác nhau nhưng đều thất bại và bị kẻ thù đàn áp. Trong bối cảnh con đường cứu nước bế tắc, đất nước Việt Nam trong đêm trường nô lệ không tìm thấy lối thoát, sự hoạt động không mệt mỏi, chủ động, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời, mở ra bước ngoặt lớn của đất nước. Từ đây, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân có Đảng lãnh đạo.
Giành chính quyền tại Hà Nội trong Cách mạng tháng Tám 1945 (Ảnh tư liệu)
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (02/1930) xác định con đường, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Luận cương Chính trị của Đảng (10/1930) chỉ rõ: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng là thời kỳ dự bị để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội… Hội nghị Trung ương tháng 5/1941, khẳng định: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong của giai cấp vô sản thành lập từ năm 1930 có thế lực mạnh nhất trong quần chúng, đặc biệt là trong thợ thuyền và dân cày. Trên 12 năm tranh đấu chống giặc Pháp và Nhật, Đảng ta đã tiêu biểu cả tinh thần cách mạng của giai cấp và dân tộc, đủ lý thuyết lãnh đạo năng lực của toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật đi đến thực hiện chủ nghĩa cộng sản”[3]. Đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng trong giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”[4]. Vì thế, cuộc cách mạng lúc này chỉ tập trung giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc trên nguyên tắc tôn trọng quyền “dân tộc tự quyết” của mỗi quốc gia Đông Dương, nhưng hết sức đoàn kết để cùng chống kẻ thù chung. Đặc biệt, sang năm 1945, trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng kịp thời nhận định tình hình và có những quyết sách thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với quyết tâm dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập và đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, toàn dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi, mở ra thời đại Hồ Chí Minh.
Dân tộc Việt Nam phải đánh đổi bằng máu, nước mắt và cả tính mạng của mình để đi đến thời đại Hồ Chí Minh. Cách mạng tháng Tám không đến từ sự “ăn may” hay do có “khoảng trống quyền lực” mà đến từ bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cùng niềm tin của dân với Đảng, lãnh tụ; từ khát vọng độc lập của toàn dân Việt Nam; từ sự hội tụ thiên thời, địa lợi, nhân hoà… Trí tuệ, bản lĩnh của Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh là đã nắm bắt được thời cơ vẻn vẹn khoảng hai tuần lễ, phát huy được cao nhất sức mạnh nội lực của toàn dân tộc, sử dụng hiệu quả kỳ công của 15 năm chuẩn bị thực lực để hiện thực hoá mục tiêu khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Thắng lợi đó khẳng định ý chí độc lập, tự chủ, vai trò quyết định của sức mạnh nội lực - một bài học kinh nghiệm mãi nguyên giá trị lý luận, thực tiễn, một hành trang đặc biệt để Đảng, nhân dân Việt Nam vững bước tiến vào thời đại Hồ Chí Minh.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 (Ảnh tư liệu)
Dấu ấn lãnh đạo của Đảng trong các kỷ nguyên
Kỷ nguyên, hiểu đơn giản là một khái niệm có tính phân kỳ lịch sử dựa trên các sự kiện, dấu mốc có tính chất bước ngoặt. Đó là một thời kỳ phát triển mới về chất so với thời kỳ trước và tạo ra những thay đổi mạnh mẽ, toàn diện trong đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, thời đại Hồ Chí Minh bắt đầu từ năm 1945 với các kỷ nguyên: độc lập, tự do; thống nhất, đổi mới và tiến tới kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.
Một là, trong kỷ nguyên độc lập, tự do
Đây là kỷ nguyên đầu tiên của thời đại Hồ Chí Minh, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, thống nhất đất nước, từng bước kiến thiết, xây dựng chế độ mới và các điều kiện ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam đứng vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa, dân chủ trên hoàn cầu.
Trong 30 năm (1945-1975) lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định đúng kẻ thù, hoạch định được đường lối kháng chiến đúng đắn, phù hợp. Đường lối kháng chiến với tinh thần cốt lõi: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã được kế thừa, phát triển thành đường lối chiến tranh nhân dân (nghệ thuật chiến tranh nhân dân) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), phát huy cao độ tinh thần, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, một dân tộc “đất không rộng, người không đông”, quân đội “ấu thơ”, với dân số trên 95% không biết đọc, không biết viết… đã giành được chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu (5/1954), ký Hiệp định Paris (1973) rồi đến chiến thắng 30/4/1975… làm nên những kỳ tích, đánh bại các cường quốc thực dân, đế quốc Pháp, Mỹ, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn của Đảng, ý chí, sức mạnh của truyền thống lịch sử, văn hoá và con người, vị thế Việt Nam.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng còn thể hiện sinh động ở giai đoạn (1954-1975) trong bối cảnh đất nước, thế giới vô cùng khó khăn, phức tạp, nhưng Đảng đã hoạch định được đường lối lãnh đạo đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau ở hai miền đất nước thắng lợi. Đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cả nước cùng thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chung là hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước. Trong đó, Đảng đã nhận thức và đề ra được đường lối, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xác định đúng vai trò, vị trí hậu phương lớn miền Bắc. Từ đó, khơi dậy được tinh thần đoàn kết toàn dân, thắp lên khắp miền Bắc sôi động không khí thi đua lao động sản xuất giỏi, nhân dân hăng hái xây dựng đời sống mới, cả xã hội một tâm thế phấn khởi, nhiệt huyết phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội để vừa được thụ hưởng một chế độ xã hội “người với người sống để yêu nhau” vừa tăng cường thực lực cách mạng, tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để chiến thắng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa… miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội[5].
Sự lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên độc lập, tự do là hành trang quan trọng, tiền đề, cơ sở trực tiếp để Đảng tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí tuệ đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
[1] Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần đổi tên. Tháng 2/1930, Đảng thành lập với tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam, đến tháng 10/1930, Đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 11/11/1945, Đảng ra Thông cáo tự giải tán, thành lập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”, thực chất đây là thời kỳ Đảng rút vào hoạt động bí mật. Tại Đại hội II của Đảng (02/1951), Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam. Từ Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) đến nay (2/2025), Đảng trở lại tên gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả dùng tên gọi tắt là Đảng
[2] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.43-44.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr.109.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.113.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, tr.490