Ngày 11/6/1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Hòa thượng là tấm gương tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của tăng ni, Phật tử vì đạo pháp và dân tộc, chống cường quyền
Tấm gương đầu tiên vì đạo pháp và dân tộc
Chủ trương chèn ép, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm kéo dài trong những năm 1954-1963. Đỉnh điểm của nó là vụ bắn vào đoàn biểu tình của Phật giáo ngày 08/5/1963 tại Huế. Từ đó, phong trào đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật ngày càng dâng cao.
Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn không từ bỏ chính sách cũ, tiếp tục chủ trương đàn áp Phật giáo ngày càng mạnh mẽ. Hàng trăm tăng ni, phật tử bị bắt giam. Các cuộc biểu tình bất bạo động bị đàn áp. Chùa chiền bị khủng bố. Các yêu sách của đồng bào Phật giáo bị chính quyền bỏ qua.
Hòa thượng Thích Quảng Đức sinh năm 1897 tại Hội Khánh, Vạn Ninh, Khánh Hòa, tên khai sinh là Lâm Văn Tức. Lên 7 tuổi, ông được cha mẹ cho xuất gia học đạo, 15 tuổi ông thụ Sa di, 20 tuổi ông thụ túc giới, pháp danh Trị Thủy, pháp tự Hành Pháp, hiệu Thích Quảng Đức. Sau một thời gian hành đạo tại miền Trung, năm 1943, ông vào Nam và hành đạo khắp các tỉnh Sài Gòn, Gia Định, Hà Tiên, Định Tường. Trong 20 năm hành đạo tại miền Nam , ông đã kiến tạo, trùng tu 17 ngôi chùa, chùa cuối cùng ông trụ trì là chùa Quán Âm tại số 68 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận, Gia Định. Ông còn có tên là Hòa thượng Long Vĩnh vì ông trụ trì chùa Long Vĩnh lâu nhất tại miền Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó trị sự và Trưởng ban nghi lễ của Giáo hội Tăng già Việt Nam trong một thời gian khá lâu. Ông cũng trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam việt. Khi trụ sở dời về chùa Xá Lợi, ông xin thôi và đi hành đạo khắp nơi.
Trước tình hình đó, ngày 11/6/1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm chấm dứt đàn áp Phật giáo, giải tỏa các chùa ở Huế và Sài Gòn, giải quyết các nguyện vọng của Phật giáo.
Sự kiện gây ra sự xúc động và kinh ngạc dư luận trong và ngoài nước. Nghe tin Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, mỗi ngày, có hằng vạn người kéo đến chùa Xá Lợi, số 89 Bà Huyện Thanh Quan để chiêm bái nhục thân của ông cho dù sự kiểm soát của chính quyền Ngô Đình Diệm rất gắt gao.
Ông Trần Văn Giàu cho rằng: sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm, bên cạnh nguyên nhân chính là phong trào đấu tranh giải phóng của quần chúng liên tục từ đồng khởi, sự “thay ngựa giữa dòng” của đế quốc Mỹ còn một nguyên nhân nữa là “yếu tố Thích Quảng Đức” đã khuấy động Phật giáo và quần chúng thành thị đến mức cao độ. Học giả Filliozat viết trên tạp chi Journal Atique 1963 fas 1 Pais: “Một hành động như thế do một nhà sư Việt Nam thành tựu tại Sài Gòn vừa mới làm cho người ta kinh ngạc và xúc động”1.
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (Ảnh tư liệu)
Trước khi chết, Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại một bức tâm thư và bài thơ sau:
"Đệ tử hôm nay tự đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro trắng phẳng san hố bất bình
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thông nương tựa giúp sinh linh
Hỡi ai ảo mộng còn đang mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình”
“Đây là lời kêu gọi cuối cùng của một nhà sư bình dân suốt đời khổ hạnh, lăn lộn trong nhân dân lao động, san sẻ nỗi thống khổ của cả một dân tộc đang quằn quại trong bùn và máu để mở ra không khí tự do mà đòi quyền sống”2.
Ông Trần Bạch Đằng viết: “Đây là thời kỳ cái tinh túy của đạo Phật được phát huy, được luân lý dân tộc chấp nhận. Đó là hình ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu, một kỳ công không bao giờ có được, là hun đúc của lịch sử, là tinh hoa của Phật giáo Việt Nam tầm cỡ thế giới” 3.
Hành động tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức, thứ vũ khí đấu tranh bất bạo động cao nhất của Phật giáo đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh ngày càng lan rộng, dâng cao của tín đồ Phật giáo.
Trước sự bất bình của dư luận trên thế giới và sự phẫn nộ của hàng chục triệu đồng bào miền Nam, được Mỹ “bật đèn xanh”, ngày 01/11/1963, một cuộc đảo chính của phái quân sự đã lật đổ chế độ gia đình trị họ Ngô, giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.
Tác giả Jerrold Schecter viết trong cuốn Bộ mặt mới của nhà Phật rằng: “Phong trào quần chúng của Phật giáo mặc dầu không có chương trình, không có cảnh sát và quân đội, đã tập hợp được lực lượng phản đối Chính phủ Diệm. Nó tượng trưng cho quyền lực chính trị tiềm tàng của đạo Phật và tính quần chúng đông đảo của đạo Phật ở Việt Nam”4. “Các nhà sư là những chất xúc tác dẫn tới cuộc đảo chính”5. Điều đó cũng đã được khẳng định khi Hòa thượng Thích Thiện Hoa tuyên bố: “Chúng ta đứng dậy không phải chỉ để bảo vệ giáo kỳ mà còn để lật đổ một chính quyền độc tài, hầu xây dựng một chế độ dân chủ”6.
Một cuộc đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật, năm 1963 (Ảnh tư liệu)
Khích lệ đồng bào Phật giáo đấu tranh chống cường quyền, vì hòa bình, bảo vệ Phật pháp
Hòa thượng Thích Quảng Đức không phải là người duy nhât tự thiêu để chống chính quyền Sài Gòn. Noi theo tấm gương của ông, đã có hàng chục tăng, ni, Phật tử tiếp tục tự thiêu chống lại cường quyền. Đây là những đòn giáng mạnh mẽ vào chế độ chính trị miền Nam luôn được cho là tự do, dân chủ.
Năm 1963, ngày 11/6 (20/4 Quý Mão), Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt -Phan Đình Phùng, Sài Gòn.
Năm 1963, ngày 4/8, Đại đức Thích Nguyên Hương tự thiêu tại công trường Chiến sĩ, trước Tỉnh đường Phan Thiết.
Năm 1963, ngày 13/8, Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên, Huế.
Năm 1963, ngày 15/8, Thích Nữ Diệu Quang, tục danh Ngô Thu Minh, 27 tuổi, tự thiêu tại Ninh Hòa.
Năm 1963, ngày 16/8 (27/6 Quý Mão), Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, 62 tuổi, tự thiêu tại chùa Từ Đàm, Huế.
Năm 1963, ngày 29/9, Phật tử Hồng Thế, thương phế binh, tự thiêu sau chùa Phước Lâm, Vũng Tàu.
Năm 1963, ngày 5/10, Đại đức Thích Quảng Hương tự thiêu tại chợ Bến Thành, ngồi kiết già trước công trường Diên Hồng, Sài Gòn.
Năm 1963, ngày 27/10, Đại Đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu trước công trường Hòa Bình, nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn.
Năm 1965, ngày 26/1, Phật tử Đoàn Thị Yến Phi, 17 tuổi, nữ đoàn phó gia đình Phật tử, tự thiêu tại Tòa Hành chánh, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1965, ngày 20/4, Sa di Thích Giác Thành, tự thiêu cầu nguyện hoà bình Việt Nam tại chùa Giác Vương, tỉnh Gia Định.
Năm 1966, ngày 29/5 (Mùng 10.4 Bính Ngọ), Bà Hồ Thị Thiều, pháp danh Nguyên Sanh vị pháp thiêu thân vào 21 giờ 30 tại Việt Nam Quốc tự.
Năm 1966, ngày 30/5, Phật tử Nguyễn Thị Vân tự thiêu tại chùa ở Thành Nội, Huế.
Năm 1966, ngày 5/5, âm lịch, Phật tử Đặng Thị Ngọc Tuyền tự thiêu tại Đà Lạt, Tuyên Đức.
Năm 1966, ngày 1/6, Đại đức Thích Thiện Huệ, tục danh Nguyễn Lang, 18 tuổi, tự thiêu tại gò giếng nước nóng, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1966, ngày 4/6, Đại đức Thích Như Hải vị pháp thiêu thân tại chùa Tỉnh Giáo hội , Quảng Trị.
Năm 1966, ngày 4/6, Thích nữ Diệu Tri, tục danh Lê Thị Hiền, pháp danh Tâm Lương, 27 tuổi, tự thiêu trước Đài Quan Âm, tại Ni viện Diệu Quang, Nha Trang.
Năm 1966, ngày 17/6, Đào Thị Tuyết, pháp danh Tâm Bạch, tự thiêu vào 21 giờ 30 tại Việt Nam Quốc tự.
Năm 1966, ngày 15/4 Bính Ngọ, Ni cô Đỗ Thị Cứu, pháp danh Nguyên Huệ, tự Diệu Định, 26 tuổi, tự thiêu tại chùa Hải Lạc ở Đà Nẵng.
Năm 1966, ngày 23/6 (5/5 Phật lịch 2510), Phật tử Đào Thị Ngọc Tuyến vị pháp thiêu thân.
Năm 1966, Đại đức Thích Huệ Hồng tự thiêu trước Tổng vụ Thanh Niên, đường Công Lý, Sài Gòn.
Năm 1966, ngày 9/4 âm lịch, Thích nữ Thanh Quang tự thiêu tại chùa Diệu Đế, Huế.
Năm 1966, ngày 30/8, nữ sinh Phật tử Nguyễn Thị Huê tự thiêu tại Việt Nam Quốc tự.
Năm 1967, ngày 16/5 (mùng 8/4, Phật Đản 2511), bắt đầu khai mạc “Tuần lễ cầu nguyện hoà bình Việt Nam” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tại chùa ấn Quang, Phật tử Nhất Chi Mai tự thiêu tại chùa Từ Nghiêm đường Bà Hạt, Chợ Lớn.
Năm 1967, ngày 3/10, Thích nữ Trí Túc, tục danh Lê Thị Hậu, tự thiêu tại chùa Bảo An, Cần Thơ (Phong Dinh).
Năm 1967, ngày 8/10, Thích nữ Trí Chơn, tục danh Nguyễn Thị Ngọc, sanh năm 1917 (54 tuổi), tự thiêu tại chùa Quan Âm, Sa Đéc.
Năm 1967, ngày 22/10, Thích nữ Huệ Lạc, tục danh Lê Thị Nghiêm, sanh năm 1945 (22 tuổi), tự thiêu tại chùa Viên Giác, tỉnh Gia Định.
Năm 1967, ngày 31/10, Đại đức Thích Hạnh Đức, tục danh Trần Văn Minh, sinh năm 1947 (20 tuổi), tự thiêu tại Quảng Ngãi.
Năm 1967, ngày 1/11, Thích nữ Thông Huệ, tục danh Nguyễn Thị Lộc Đài, sinh năm 1937 (30 tuổi), tự thiêu tại Nha Trang.
Năm 1969, ngày 25/12 (17/11 Kỷ Dậu, Vía Phật A di đà), Phật tử Lê Văn Mỹ 68 tuổi, pháp danh Tâm Mậu, tự Chơn Thiện, tự thiêu tại Đà Nẵng.
Năm 1970, ngày 4/6, Ni cô Khất sĩ Liên Tập, tục danh Lê Thị Gái tự thiêu tại Ninh Thuận.
Năm 1970, ngày 10/6, Đại đức Thiện Lai, tục danh Bùi Đình Tăng, 14 tuổi, tự thiêu trước chùa Phổ Quang, Phú Nhuận7.
Thống kê cho thấy đã có tổng cộng 32 tăng ni, Phật tử tự thiêu. Các vụ tự thiêu tập trung vào năm 1963 và 1966, khi các cao trào đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật chống chính quyền miền Nam dâng cao. Ngoài ra, mục đích tự thiêu của nhiều Phật tử còn để bảo vệ đạo pháp và cầu nguyện cho hòa bình Việt Nam, bởi trong những năm 1965-1970, thời điểm quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam, chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt, mất mát của dân tộc Việt Nam vô cùng to lớn. Các cuộc tự thiêu nhằm phản đối chiến tranh, đòi Mỹ rút quân, cầu nguyện cho nền hòa bình của Việt Nam.
Từ những năm 1970 trở đi, chính quyền Sài Gòn có phần thay đổi chính sách đối với Phật giáo, đồng thời quân Mỹ bắt đầu rút dần nước, các vụ tự thiêu của Phật tử mới chấm dứt.
1Nguyễn Đăng Thục: Phật giáo Việt Nam, Nxb Mặt Đất, Sài Gòn, 1974, tr. 276.
2Nguyễn Đăng Thục: Phật giáo Việt Nam, Nxb Mặt Đất, Sài Gòn, 1974, tr. 276- 277.
3Trần Bạch Đằng: Mấy vấn đề về nghiên cứu Phật giáo trong tư tưởng dân tộc trong cuốn Mấy vấn đề về Phật giáo và tư tưởng Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1986.
4 Việt Nam Thông tấn xã: Phong trào Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội, 1973, tr. 55.
5 Việt Nam Thông tấn xã: Phong trào Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội, 1973, tr. 55.
6 Lê Ngọc Diệp: Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, Học viện quốc gia hành chánh Sài Gòn, 1967, tr. 109.
7 Danh sách các Phật tử tự thiêu dẫn theo cuốn sách của Vân Thanh: Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam qua các thời đại và phát nguồn của các giáo phái Phật giáo, các Phật học viện xuất bản, Sài Gòn 1974, tr. 104-110.