Câu hỏi: Xin cho biết tầm quan trọng của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển?

Trả lời

Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) ra đời sau khi kết thúc Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ ba với 11 phiên họp, diễn ra từ năm 1973 đến năm 1982. Công ước là một trong những thành tựu quan trọng nhất của luật pháp quốc tế và của Liên hợp quốc trong thế kỷ XX.

NCLOS ra đời sau khi kết thúc Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ ba với 11 phiên họp, diễn ra từ năm 1973 đến năm 1982. (Nguồn: UN)

UNCLOS 1982 ra đời đã 40 năm và cho đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Đánh giá tầm quan trọng của UNCLOS 1982, Đại sứ, PGS.TS.Nguyễn Hồng Thao, thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2017-2021 và 2023-2027 cho rằng, đây là một trong những thành tựu quan trọng nhất của luật pháp quốc tế và của Liên hợp quốc không chỉ trong thế kỷ XX mà đang và sẽ là thành tựu quan trọng trong lịch sử phát triển của luật biển quốc tế.

Thứ nhất, UNCLOS 1982 đã khắc phục được các điểm yếu của các Công ước về Luật Biển thông qua tại Geneva năm 1958. Nếu Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải cũng như Công ước về thềm lục địa năm 1958 không giải quyết triệt để được vấn đề bề rộng vùng biển thì UNCLOS 1982 đã phân định các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, biển cả và vùng đáy biển di sản chung của loài người một cách rõ ràng và được sự ủng hộ của các quốc gia, thành viên và không thành viên của Công ước.

Từ nguyên tắc “đất thống trị biển”, UNCLOS 1982 cho phép các quốc gia ven biển mở rộng chủ quyền ra một vùng nước tiếp liền lãnh thổ với tên gọi lãnh hải 12 hải lý. Các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về mặt kinh tế và các quyền tài phán trên vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở và vùng thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển cho tới rìa ngoài của thềm lục địa, hoặc kết thúc ở khoảng cách 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2500m.

Nơi nào rìa ngoài của thềm lục địa kết thúc ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý thì thềm lục địa kéo ra đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong khi thực hiện các quyền và lợi ích của mình, quốc gia ven biển tôn trọng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải và các quyền tự do biển cả trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà các quốc gia khác được hưởng.

UNCLOS 1982 quy định đầy đủ nhất chế độ pháp lý các vùng biển cả và vùng đáy biển di sản chung của loài người. Công ước đã giải quyết cơ bản mâu thuẫn giữa “tự do biển cả” và xu thế tiến ra biển không giới hạn của các quốc gia.

Thứ hai, UNCLOS 1982 đã giải quyết các vấn đề trên biển một cách tổng thể, không phân mảnh như thể hiện trong 4 Công ước về luật biển năm 1958. Công ước thiết lập lần đầu tiên một bộ quy tắc cho các hoạt động biển và đại dương, xây dựng trật tự pháp lý mới trên biển đầy tiềm năng.

UNCLOS 1982 thiết lập và thúc đẩy chế độ pháp lý quản lý và bảo tồn tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, chuyển giao công nghệ biển một cách đồng bộ và hiệu quả trên cơ sở tiếp cận tích hợp và dựa trên hệ sinh thái.

Sau UNCLOS 1982, một loạt sáng kiến trong các lĩnh vực này đã được triển khai. Sau Chương 17 của Kế hoạch hành động 21 Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết số 66/288 ngày 27/7/2012 về “Tương lai chúng ta mong muốn” công nhận rằng, đại dương, biển và vùng ven biển tạo thành một thành phần tích hợp và thiết yếu của hệ sinh thái Trái đất.

Nghị quyết số 71/312 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 6/7/2017 “Đại dương của chúng ta, tương lai của chúng ta” kêu gọi hành động thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững 14: Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển để phát triển bền vững.

Các quốc gia cam kết hành động để giảm tỷ lệ và tác động của ô nhiễm đối với các hệ sinh thái biển, bao gồm thông qua việc thực thi hiệu quả các công ước có liên quan được thông qua trong khuôn khổ của Tổ chức Hàng hải quốc tế và theo dõi các sáng kiến có liên quan như Chương trình hành động toàn cầu bảo vệ môi trường biển khỏi các hoạt động trên đất liền, phấn đấu đến năm 2025, dựa trên dữ liệu khoa học thu thập được, đạt được sự giảm đáng kể các mảnh vụn biển, đặc biệt là rác thải nhựa, chất ô nhiễm hữu cơ bền vững, kim loại nặng và các hợp chất dựa trên nitơ, từ một số nguồn vận chuyển biển và có nguồn gốc từ đất liền.

Thứ ba, UNCLOS 1982 bảo vệ quyền tự do hàng hải, an toàn trên biển, phối hợp với Tổ chức Hàng hải quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho giao thông hàng hải quốc tế, Công ước là cơ sở đấu tranh chống các tội phạm trên biển, đặc biệt trấn áp cướp biển và tội phạm cướp có vũ trang trên biển. Theo điều 100 của UNCLOS 1982, tất cả các quốc gia được yêu cầu hợp tác ở mức độ tối đa có thể trong việc trấn áp cướp biển.

Thứ tư, UNCLOS 1982 thiết lập một trật tự pháp lý mới trên biển trên cơ sở công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các quốc gia nhỏ, các quốc gia đang phát triển. Trật tự pháp lý mới này thay thế cho trật tự pháp lý cũ do các nước phương Tây thiết lập trong các Công ước luật biển năm 1958, có lợi cho các nước có trình độ khoa học công nghệ biển cao và kinh tế biển phát triển.

Hội nghị luật biển lần thứ ba đã tạo điều kiện cho các quốc gia đang phát triển nói lên tiếng nói của mình. Hai sáng kiến mới quan trọng trước Hội nghị của Liên hợp quốc lần thứ ba về luật biển được UNCLOS 1982 thông qua chính là đề xuất của Malta về Vùng đáy biển di sản năm 1967 và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Kenya năm 1972. Quyền lợi của các quốc gia không có biển, quốc gia bất lợi về mặt địa lý, quốc gia quá cảnh đã được bảo đảm công bằng hơn.

Thứ năm, UNCLOS 1982 là văn bản pháp lý đầu tiên đưa ra quy định về cơ chế hoà giải bắt buộc và giải quyết tranh chấp bắt buộc. Các cơ chế này đã ngày càng được nhiều nước chú ý sử dụng, giảm thiểu thời gian và tạo cơ hội cho các quốc gia sử dụng bên thức ba trong giải quyết các tranh chấp biển một cách công bằng, khách quan. UNCLOS 1982 cũng tạo ra những cơ quan mới về giải quyết tranh chấp biển và quản lý biển như Toà án quốc tế về Luật biển, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa hay Cơ quan quyền lực Đáy đại dương.

Thứ sáu, UNCLOS 1982 thể hiện cao nhất tính pháp điển hóa tập quán quốc tế và sự phát triển tiến bộ của Luật quốc tế trong lĩnh vực biển. Ngoài phần liên quan đến Đáy biển - di sản chung của loài người - hầu hết các quy định của Công ước đều mang tính tập quán nên một số quốc gia không tham gia Công ước như Mỹ cũng được thừa hưởng các thành quả của Công ước. Chính vì vậy có thể nói sau Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS 1982 là Công ước được sự ủng hộ rộng rãi nhất từ 168 thành viên và cả các nước không thành viên như Mỹ. Đó cũng là lý do vì sao UNCLOS 1982 được coi là Hiến pháp về biển và đại dương.

(Theo Xuân Thông: “Nhìn lại UNCLOS sau 40 năm”, https://baoquocte.vn, ngày 06/8/2022)