Trong giai đoạn cách mạng mới, quân đội nhân dân là trụ cột bảo vệ Tổ quốc bảo vệ hòa bình, Bộ Chính trị quyết định xây dựng quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại. Đây là một nhiệm vụ lâu dài, phức tạp, trong đó quan trọng nhất và thường xuyên nhất là huấn luyện quân đội, đặc biệt là huấn luyện cán bộ.

Đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhiệm vụ của Quân đội hiện nay là phải cố gắng tiến lên chính quy. Đây là nhiệm vụ mới. Không nên vì hòa bình mà sao lãng học tập. Cần học chính trị để nắm vững chính sách của Đảng và Chính phủ. Phải học tập kỹ thuật vì kỹ thuật ngày càng tiến bộ, mình cũng phải học để tiến bộ. Muốn cho bộ đội ta hùng mạnh, chúng ta phải cố gắng học tập chính trị và kỹ thuật để tiến lên chính quy”[1].

Dưới sự lãnh đạo của Tổng Quân ủy và sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, các đơn vị quân đội đã tiến hành nhiều đợt học tập, nhằm quán triệt các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị về tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ và phương châm xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.

Việc học tập văn hóa được tổ chức ở tất cả các đơn vị, không khí học tập sôi nổi, nhất là trong đội ngũ cán bộ ở các cơ quan và binh chủng kỹ thuật. Các nhà trường trong quân đội bắt đầu mở các khóa đào tạo và bổ túc cán bộ về quân sự và chính trị. Chi bộ Đảng ra công khai lãnh đạo đơn vị, góp phần đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tiên phong của đảng viên, tinh thần tích cực tham gia xây dựng đảng của chiến sĩ ngoài Đảng. Chế độ ngày sinh hoạt đảng được thực hiện, có tác dụng tốt đối với việc giáo dục đảng viên và nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9/1960 (Ảnh tư liệu)

Cuối năm 1954, quân đội ta bước vào khóa huấn luyện quân sự đầu tiên trong thời bình.

Đến cuối năm 1956, việc chấn chỉnh biên chế, tổ chức trang bị của quân đội ta căn bản hoàn thành. Quân đội ta đã được tập trung xây dựng thành 14 sư đoàn, 5 trung đoàn bộ binh độc lập, 4 sư đoàn pháo binh, phòng không và các trung đoàn, tiểu đoàn Công binh, Thông tin, Vận tải với biên chế và trang bị tương đối thống nhất.

Đầu năm 1957, Ban Chấp hành Trung ương đã phê chuẩn Kế hoạch xây dựng quân đội củng cố quốc phòng trong 5 năm 1955-1959, kế hoạch do Bộ Tổng tham mưu và các tổng cục chuẩn bị từ năm 1955 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy, được Bộ Chính trị thông qua về mặt nguyên tắc cuối năm 1956.

Kế hoạch có 8 nội dung cụ thể, trong đó có nội dung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị. Kế hoạch xác định đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, có tác dụng quyết định trong việc xây dựng quân đội chính quy hiện đại. Coi trọng xây dựng các đảng bộ cơ sở. Thực hiện chế độ thủ trưởng phân công phụ trách dưới sự lãnh đạo tập thể và thống nhất của Đảng ủy. Công tác chính trị phải nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý chí chiến đấu của quân đội, xây dựng sự nhất trí trong toàn quân về tư tưởng và hành động trong việc thực hiện kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu. Công tác chính trị phải đi sâu vào chiến thuật, kỹ thuật, chấp hành điều lệnh, nghiệp vụ ,chuyên môn.

Từ tháng 5 năm 1957, Quân đội ta bước vào đợt sinh hoạt chính trị học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng.

Tiếp đó, trong 2 năm 1958-1959, quân đội ta mở nhiều đợt học tập nhằm tiếp tục nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, quán triệt đường lối, nhiệm vụ chính trị và quân sự của Đảng trong toàn quân.

Đến năm 1960, Quân đội ta ở miền Bắc được xây dựng theo hướng chính quy hiện đại với tổng quân số 160.000 người, trong đó các binh chuẩn kỹ thuật chiếm 49%.

Công tác đảng, công tác chính trị trong bộ đội được tăng cường. Cuộc vận động nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, rèn luyện lập trường quan điểm giai cấp vô sản cho đảng viên và xây dựng chi bộ vững mạnh được tiến hành trong quân đội. Đảng viên được học tập các tài liệu “là một người đảng viên tốt”, “nghĩa vụ và quyền hạn của đảng viên”, “Chế độ tập trung dân chủ của Đảng”. Công tác phát triển Đảng được tiến hành tích cực, đều khắp theo phương châm thận trọng, lấy chất lượng làm chính.

Từ năm 1954 đến năm 1958, Đảng bộ quân đội đã kết nạp được 35.000 đảng viên. Sau khi đã chuyển một số lớn cán bộ đảng viên ra các cơ quan, xí nghiệp nhà nước và về các địa phương, số lượng đảng viên trong quân đội vẫn chiếm tỷ lệ từ 30 đến 40% trong tổng số quân.

Năm 1957, quân đội bắt đầu tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp từ tiểu đoàn đến sư đoàn. Đây là một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng nhằm thực hiện chế độ tập trung dân chủ, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy Đảng, đẩy mạnh phê bình tự phê bình, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam trong quân đội được tổ chức, đến năm 1958, toàn quân có 3.000 chi đoàn, số lượng đoàn viên chiếm 51% tổng số cán bộ, chiến sĩ ở lứa tuổi thanh niên, đây là một bước chuẩn bị tốt cho việc kết nạp đảng viên trong quân đội.

Tháng 11/1958, Tổng Quân ủy triệu tập Hội nghị chính ủy và Chủ nhiệm chính trị toàn quân phổ biến bản dự thảo Điều lệ công tác chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều lệ quy định tính chất, nhiệm vụ và nội dung chính của công tác chính trị, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xác định nhiệm vụ, chức trách của cơ quan chính trị, làm cơ sở cho mọi hoạt động công tác đảng công tác chính trị trong quân đội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một đơn vị bộ đội ở Nam Định năm 1957 (Ảnh tư liệu TTXVN)

Cũng trong năm 1958, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tổng cục Chính trị đã hoàn thành tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhằm đúc rút kinh nghiệm cho công tác xây dựng đảng trong quân đội thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Tổng Quân ủy và Tổng cục Chính trị thấy rằng cần chăm lo xây dựng hệ thống Đảng bộ quân đội vững mạnh, trong sạch, không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân và truyền thống cách mạng của quân đội, làm cho quân đội trung thành với Tổ quốc, gắn bó với nhân dân lao động, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng pháp luật Nhà nước, làm tròn chức năng công cụ sắc bén, tin cậy của Nhà nước. Công tác chính trị trong quân đội lấy việc giáo dục chủ nghĩa Lác-Lênin và đường lối, chính sách của Đảng làm nhiệm vụ cơ bản, làm tốt việc vận động cán bộ, chiến sĩ chấp hành nghiêm kỷ luật, chế độ điều lệnh, đi sâu vào kỹ thuật, chiến thuật, góp phần chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội.

Tháng 9/1960, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tuyên dương công trạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và từ ngày miền Bắc được giải phóng, đã có những cống hiến to lớn trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước phát triển kinh tế văn hóa, tiếp tục viết lên những trang sử truyền thống tốt đẹp. Căn cứ đường lối nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, Đại hội đề ra nhiệm vụ quân sự của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là bảo vệ vững chắc miền Bắc, trong đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh cuộc đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.

Để quân đội nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Đại hội quyết định đẩy mạnh xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại củng cố và phát triển dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng hậu bị gắn liền với việc xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, bảo đảm cho quân đội ta luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đồng thời với thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc sẽ thực hiện Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961 1965) về xây dựng quân đội. Kế hoạch do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị, được Bộ Chính tr thông qua trong phiên họp ngày 25/02/1961.

Trong những nội dung chính của kế hoạch có nội dung kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với các lực lượng vũ trang. Chấn chỉnh thêm một bước các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy ở Bộ Quốc phòng và các quân khu. Quân ủy Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội.

Từ năm 1961, trong quân đội phát động phong trào thi đua khất cao ngọn cờ Ba nhất cùng với phong trào thi đua của các ngành, lĩnh vực khác.

Do làm tốt công tác phát triển đảng, tỷ lệ đảng viên so với tổng quân số thường xuyên giữ được mức trên dưới 30% mặc dù mỗi năm ta đã thực hiện luân chuyển khoảng 25.000 chiến sĩ theo chế độ nghĩa vụ quân sự. Việc thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt, đẩy mạnh phê bình, tự phê bình trong sinh hoạt đảng, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên đã nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ở các đơn vị cơ sở.

Mùa Xuân năm 1961, cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào đợt sinh hoạt chính trị quán triệt các văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

Theo kế hoạch xây dựng quân đội trong những năm 1961-1965, biên chế quân đội ta được ấn định là 260.000 người, trong số đó có 170.000 quân thường trực, còn lại là lực lượng quân dự bị, dân quân, du kích ở các địa phương

Đến năm 1963, miền Bắc tiếp tục giữ mức quân thường trực là 173. 500 người. Lực lượng dự bị hùng hậu và thực hiện tốt huấn luyện quân sự phổ cập để bảo đảm trong khoảng 15 ngày sau khi có lệnh tổng động viên, miền Bắc có thể đưa quân số thường trực chiến đấu lên 260.000 người. Trong trường hợp chiến tranh mở rộng, có khả năng nhanh chóng tăng số quân thường trực lên từ 350.000 đến 400.000 người vào những năm 1964-1965 và lên 500.000 người trong những năm 1966 -1967.

Đến năm 1965, theo Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965), quân đội ta đã hình thành cơ cấu tổ chức của một Quân đội hiện đại gồm ba quân chủng lục quân, phòng không - không quân và hải quân.

Công tác xây dựng Đảng trong quân đội và các mặt công tác chính trị được đặc biệt chú trọng. Các đại đội đều có chi bộ Đảng. 60% chi bộ có đủ đảng viên để bầu cấp ủy. 30% số tiểu đội bộ binh và khẩu đội pháo có đảng viên. Hàng vạn đoàn viên ưu tú, trong đó có hàng nghìn cán bộ nhân viên kỹ thuật được kết nạp vào Đảng.

Đội ngũ cán bộ chính trị tăng nhanh về số lượng (chiếm 24% tổng số cán bộ toàn quân) và chất lượng (75% cán bộ chính trị các cấp được đào tạo cơ bản và bổ túc về nghiệp vụ).

Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị do đồng chí Song Hào làm Chủ nhiệm, việc biên soạn các tài liệu học tập lý luận, giáo dục chính trị cho cán bộ các cấp, tài liệu hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội được hoàn thành.

Có tài liệu được viết thành sách như : “Công tác bí thư đảng ủy”, “Công tác chính trị đại đội”. Các vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và các vấn đề lịch sử Đảng, công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị trong quân đội được xây dựng thành chương trình học tập có hệ thống ở các học viện, nhà trường trong quân đội và biên soạn thành tài liệu học tập tại chức của cán bộ chiến sĩ. Công tác chính trị trong huấn luyện và trong chiến đấu là một môn học trong các trường đào tạo và bổ túc cán bộ quân sự cán bộ chính trị các cấp.

Được giáo dục thường xuyên và tương đối có hệ thống lý luận Mác-Lênin, những vấn đề lớn trong đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, trình độ giác ngộ chính trị và phương pháp tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ quân đội được nâng lên một bước rõ rệt. Đây là một thành quả quan trọng của Kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai, một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho quân đội ta hoàn thành các kế hoạch xây dựng, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu.

Đội ngũ cán bộ quân đội được chú ý xây dựng và đào tạo. Đến năm 1964, tổng số cán bộ của quân đội ta có 52.041 người, được rèn luyện qua thực tế chiến đấu trên các chiến trường và đào tạo qua các nhà trường, học viện trong quân đội[2].

Tóm lại, trong 10 năm xây dựng quân đội nhân dân tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1954-1965), xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng của công tác Đảng, công tác chính trị, công tác xây dựng Đảng trong quân đội được hết sức chú ý, đã góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. Trong giai đoạn này, hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sĩ chi viện chiến trường miền Nam chiến đấu, đã góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, đồng thời quân đội ta cũng hội đủ sức mạnh vật chất và tinh thần đánh thắng Mỹ trong bước đầu chúng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

 

[1] Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, tr. 321.

[2] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 137.