Ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây không chỉ là một văn kiện mới, mà thực sự là một dấu mốc lịch sử - thể hiện sự quyết tâm chính trị ở tầm cao nhất, đặt giáo dục vào vị trí “quốc sách hàng đầu”, như chìa khóa quyết định tương lai dân tộc.
Đổi mới tư duy – điểm khởi đầu cho những đột phá mới
Điểm nhấn đầu tiên và sâu xa nhất của Nghị quyết số 71-NQ/TW chính là yêu cầu đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước đã nhìn ra rằng, nếu không thay đổi tư duy thì mọi đầu tư, chính sách, chỉ tiêu đều dễ rơi vào hình thức và thiếu bền vững.
Đổi mới tư duy ở đây không chỉ là thay đổi cách nghĩ của cơ quan quản lí, mà quan trọng hơn là xác lập một triết lý giáo dục mới - coi giáo dục là quá trình nuôi dưỡng và phát triển con người toàn diện, hướng đến nhân văn, sáng tạo, trách nhiệm công dân và hội nhập quốc tế.
Chúng ta không thể chỉ dừng lại ở “dạy chữ, dạy nghề”, mà phải tạo dựng năng lực tự học, học tập suốt đời, khơi mở trí tuệ và bản lĩnh. Nếu không đặt triết lí này làm gốc, thì dù có đột phá trong tổ chức hay đầu tư, kết quả vẫn sẽ là “thành công bề nổi nhưng rỗng ruột bên trong”.
Nghị quyết số 71-NQ/TW nhấn mạnh: đột phá phát triển giáo dục phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Đây là bước nâng cấp rõ ràng so với định hướng “đổi mới căn bản và toàn diện” của Nghị quyết số 29-NQ/TW, bởi không dừng lại ở cải cách nội tại mà hướng tới kiến tạo thể chế mở, liên thông, lấy đầu tư công làm động lực dẫn dắt xã hội hóa.
Nghị quyết nêu rõ, mục tiêu đến năm 2030: mở rộng tiếp cận công bằng, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á; 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia; 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển trong khu vực.
Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam có hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, thuộc nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới; phát triển ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc top 100 đại học hàng đầu toàn cầu ở một số lĩnh vực, theo bảng xếp hạng uy tín quốc tế.
Điểm đột phá đáng chú ý là tái khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong đầu tư cho giáo dục, trong khi vẫn coi trọng vai trò của giáo dục ngoài công lập - như một cấu phần quan trọng của hệ sinh thái giáo dục quốc dân. Mô hình giáo dục mở, học tập suốt đời, liên thông đa chiều không chỉ là khẩu hiệu mà đã trở thành chiến lược xuyên suốt - điều chưa từng được quy định rõ trong các nghị quyết trước đây.
Một bước tiến rất cụ thể là mở rộng chương trình đào tạo nghề chất lượng cao dành cho đồng bào dân tộc thiểu số - điều chưa từng được đề cập chi tiết trong các văn kiện trước. Nếu như Nghị quyết số 29-NQ/TW nhấn mạnh tự chủ đại học thì Nghị quyết số 71-NQ/TW đã cho thấy tầm nhìn xa hơn: xem giáo dục đại học là động lực dẫn dắt đổi mới sáng tạo quốc gia, trung tâm phát triển nhân lực trình độ cao và đội ngũ trí thức tinh hoa.
Nghị quyết yêu cầu khẩn trương xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học; đầu tư hiện đại hóa hạ tầng, mở rộng không gian hoạt động; hình thành các khu đại học-công nghệ cao, phát triển đại học công nghệ thế hệ mới, đại học đổi mới sáng tạo.
Chính sách quốc tế hóa cũng được đẩy mạnh chưa từng có: thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với ưu đãi vượt trội; xây dựng các chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế; mở rộng hợp tác công-tư, liên kết với các doanh nghiệp lớn, đại học có uy tín toàn cầu; thúc đẩy giáo dục số, mô hình xuyên biên giới, viện nghiên cứu liên kết.
Việc “mở rộng không gian phát triển” không còn là ẩn dụ mà đã được định lượng hóa bằng các mục tiêu cụ thể - từ tỷ lệ đào tạo sau phổ thông, số lượng trường đạt chuẩn, đến vị trí xếp hạng toàn cầu.
Những ưu tiên lớn từ đột phá về giáo dục và đào tạo
Một là, ưu tiên về nguồn lực tài chính. Một điểm đột phá rõ nét trong Nghị quyết số 71-NQ/TW là sự cam kết mạnh mẽ về nguồn lực tài chính - điều từng được đặt ra trong Nghị quyết số 29-NQ/TW nhưng còn thiếu các cơ chế thực thi hiệu quả. Lần này, mục tiêu được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu ngân sách: chi cho giáo dục đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó ít nhất 5% dành cho đầu tư và 3% cho giáo dục đại học. Đây không chỉ là con số mang tính cam kết chính trị, mà là nền tảng để hiện thực hóa các định hướng cải cách lớn, từ trường lớp đến chương trình, từ đội ngũ đến quản trị. Đặc biệt, lần đầu tiên chính sách tài chính giáo dục đặt vấn đề cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh cả nước từ nay đến 2030 - một bước tiến có ý nghĩa xã hội sâu sắc, không chỉ giảm gánh nặng chi phí học tập cho các gia đình mà còn bảo đảm cơ hội tiếp cận công bằng tri thức cho mọi đối tượng.
Hai là, ưu tiên về chính sách với nhà giáo. Nghị quyết số 71-NQ/TW đã đưa ra những chính sách rất cụ thể và giàu tính nhân văn, như: Nângphụ cấp ưu đãi nghề cho giáo viên mầm non, phổ thông tối thiểu 70%; nhân viên trường học được hưởng tối thiểu 30%; giáo viên ở vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo được hưởng 100%. Đây không chỉ là chính sách hỗ trợ đời sống, mà còn là sự khẳng định vai trò trung tâm của nhà giáo trong mọi đột phá giáo dục. Đây là điểm kết nối với tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW, nhưng được đẩy lên một cấp độ mới về thực thi và công bằng vùng miền.
Ba là, chú trọng đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo. Một trong những giải pháp tại Nghị quyết số 71-NQ/TW là tăng cường giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, qua đó hình thành hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới. Cụ thể, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm giáo dục đạo đức, nhân cách và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam. Phân định rõ vai trò, trách nhiệm giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong giáo dục đạo đức, nhân cách. Song song đó, xây dựng và cụ thể hoá hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới, tích hợp xuyên suốt chương trình giáo dục. Kiên trì xây dựng văn hoá học đường, thực học, thực nghiệp; chú trọng đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo.
Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng AI trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Về nhiệm vụ chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, Nghị quyết số 71-NQ/TW nhấn mạnh chuyển đổi số toàn diện, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo. Theo đó, Nghị quyết chỉ rõ cần xây dựng chiến lược dữ liệu cho chuyển đổi số và phát triển nền tảng giáo dục quốc gia ứng dụng trí tuệ nhân tạo có kiểm soát. Bố trí nguồn lực đầu tư hạ tầng công nghệ để phổ cập và ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý và dạy học.
Như vậy, sau hơn 10 năm triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW (năm 2013), Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu đột phá toàn diện trong giáo dục. Nghị quyết số 71-NQ/TW chính là sự tiếp nối tinh thần “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, nhưng đặt ra mục tiêu cụ thể, đặc biệt về thể chế, mô hình, đầu tư và năng lực hội nhập đáp ứng với yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới.