Các thế lực thù địch của cách mạng Việt Nam luôn hướng đến mục đích hàng đầu là tung hô, cổ xuý đòi “đa đảng đối lập”, thay cho chỉ có một Đảng Cộng sản như hiện nay. Mặc dù họ đưa ra rất nhiều viện cớ về sự cần thiết của đa đảng nhưng không thể “xô đổ bức tường” lý luận và thực tiễn của đất nước hình chữ S đang đạt được mục tiêu phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế lẫn dân chủ mà không cần và không chấp nhận đa đảng.

     1. Một số quan điểm sai trái, thù địch

     Chỉ có một Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ, không phù hợp với xu thế dân chủ, phát triển với thể chế đa đảng đang tồn tại phổ biến ở Châu Âu và đa phần còn lại của thế giới và sẽ mãi kìm níu đất nước trong tình trạng kém phát triển là luận điệu chính mà các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam thường xuyên rêu rao và công kích. Theo đó, nhiều ngụy biện, võ đoán cả ngộ nhận lẫn đầy mưu mô thâm hiểm như: “Việt Nam phát triển kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, hay “không có dân chủ trong chế độ một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền” vì sẽ rơi vào trạng thái “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, muốn đạt tới một nền dân chủ đích thực, phải thi hành chế độ đa đảng. Thậm chí, có luận điệu cho rằng, nên sớm kết thúc sứ mệnh của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ, dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử" hay “Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”, hoặc dùng hình ảnh quốc gia láng giềng Trung Quốc cũng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội với đa đảng để cổ xúy v.v… Có thể nói, chúng luôn bằng mọi cách và bất chấp những viện dẫn có thể dù chỉ là hiện tượng, giả dối thậm chí ngụy tạo để tư biện cho mưu đồ chấp nhận đa đảng và tiến dần đến đẩy Việt Nam đi đến sụp đổ và biến chuyển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

     2. Luận cứ đấu tranh phản bác

     2.1. Một đảng chính trị trung thành với lợi ích của dân tộc nên lãnh đạo, dẫn dắt được nhiều thành phần kinh tế

C.Mác trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị khẳng định: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ... Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”[1]. V.I.Lênin thì cho rằng: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”[2]; “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”[3] … Đó là những quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển mácxít về sự quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, kinh tế với chính trị. Tuy nhiên, nó bất đắc dĩ lại trở thành cứu cánh cho những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta khi được họ viện dẫn trong quá trình tư biện xem như “công thức” để rập khuôn thành “phán quyết”: Việt Nam phát triển kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần thì tất yếu phải thực hiện đa nguyên, đa đảng là đúng với những nguyên lý kinh tế quyết định chính trị, vì tương ứng với mỗi thành phần kinh tế phải có một đảng chính trị, đại diện cho giai tầng của thành phần kinh tế đó?!

     Luận điệu xuyên tạc đã rơi vào phiến diện khi cố tình chỉ thấy một chiều kinh tế quyết định chính trị và tuyệt đối hóa nó thành duy nhất, không thấy chiều ngược lại hoặc trường hợp đa dạng, ngoại lệ. Đúng là quan điểm mácxít cho rằng: kinh tế suy cho cùng quyết định chính trị. Nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nhà nước, do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố của kiến trúc thượng tầng lãnh đạo Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự tất yếu của kinh tế quyết định chính trị. Tuy nhiên, cùng với tính tất yếu đó, các nhà kinh điển cũng nhắc nhở tránh rơi vào lập trường duy vật siêu hình, tầm thường, không biện chứng (cũng là tư tưởng của các thế lực xuyên tạc, chống phá), đó là: xem kinh tế là yếu tố “quyết định duy nhất”, “toàn năng”, không thấy được tính độc lập tương đối của chính trị và quy luật vận động riêng của nó. Những người cố tình xuyên tạc, hiểu sai đã bị Ph.Ăngghen phê phán kịch liệt: “Theo quan niệm duy vật về lịch sử, xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”[4]. Chính trị có vai trò to lớn trong việc lãnh đạo, dẫn dắt các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế để hoàn thành nhiệm vụ của mình là một sự thật hiển nhiên đối với mọi quốc gia. Kế thừa C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất[5].

     Không riêng gì Việt Nam, tất cả các quốc gia xây dựng thể chế pháp quyền thì vai trò của pháp luật được giữ vị trí tối thượng trong đời sống chính trị - xã hội. Được pháp luật bảo hộ là một sự đảm bảo an toàn pháp lý cao nhất, chắc chắn nhất, vì không có một cá nhân hay tổ chức nào, kể cả đảng cầm quyền được phép đứng trên pháp luật. Đảng ta từ khi đổi mới đã xây dựng và nhất quán với đường lối chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ trương, đường lối đó đã thể chế hóa thành hiến định, cụ thể, điều 51 Hiến pháp năm 2013 có ghi: “1- Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2- Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. 3- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”. Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, Hiến pháp đã công khai ghi nhận rất rõ ràng, minh bạch đối với các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế là: “bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”; “khuyến khích, bảo hộ, không bị quốc hữu hóa” tài sản hợp pháp của cá nhân, doanh nhân; xóa bỏ mọi rào cản, định kiến cho kinh tế tư nhân phát triển, nguyên tắc không có sự “phân biệt đối xử”… và vì thế, sẽ thừa phí, không thiết thực, tức không cần phải có thêm các đảng của những thành phần kinh tế ngoài nhà nước.

     Trên phương diện thực tiễn, tất cả các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay đang tồn tại bình đẳng và vận hành theo cơ chế thị trường, tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường. Theo đó, cơ chế thị trường trở thành “sân chơi chung”, nhà đầu tư và khách hàng thực hiện giao dịch theo phương châm “thuận mua vừa bán”, không có “đảng phái” nào “chống lưng”, “thao túng” để bảo vệ, có lợi cho thành phần kinh tế của riêng mình mà làm thương tổn đến lợi ích của thành phần kinh tế khác. Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý, cơ chế, tiếp cận nguồn lực… cho các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh tế một cách công khai, dân chủ, bình đẳng trước pháp luật, không có sự phân biệt đối xử… Nói cách khác, tồn tại đa đảng trong hệ thống chính trị chỉ có thể cần thiết khi một đảng cầm quyền có lợi ích riêng. Nhưng với Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lợi ích và mục đích riêng đã được ghi rõ trong Điều lệ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.

     Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”[6].

     Từ khi đổi mới, kinh tế tư nhân ở nước ta cũng bình đẳng như mọi thành phần kinh tế khác, không phải là một “lãnh địa” hay “đặc quyền” của riêng ai, hoặc bị “kì thị”, phân biệt đối xử. Yêu cầu thực tiễn đặt ra, cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân chính là lý do mà ngày 28-8-2006, Ban Chấp hành Trung ương khóa X ban hành Quy định số 15-QĐ/TW, cũng là nhằm thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Doanh nghiệp tư nhân của đảng viên cũng phải tự giác chấp hành mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước; thực hiện một cách trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật việc kê khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác, chế độ kế toán, thống kê và các chế độ, chính sách khác của Nhà nước. Không những được thừa nhận, bảo vệ, khuyến khích mà gần đây, theo Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân còn khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Có thể nói, mọi định kiến đã bị xóa bỏ hoàn toàn, kinh tế tư nhân cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.

     Do vậy, chỉ cần sự chèo lái của duy nhất một đảng - Đảng Cộng sản Việt Nam cho mọi thành phần đã đưa nền kinh tế đất nước hình chữ S thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD[7]. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016-2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất[8]. Đến nay, gần 20 năm gia nhập WTO và hiện Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nước chủ chốt trong trong khu vực và trên thế giới và có đến 73 quốc gia với những nền kinh tế lớn như Anh, Nga, Canada, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc... công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế càng chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, hòa chung vào xu thế hội nhập tất yếu của thế giới.

     Như vậy, trên cơ sở lý luận lẫn thực tiễn Việt Nam, sự đòi hỏi phải có thêm các đảng của những thành phần kinh tế ngoài nhà nước để bảo vệ nó là không cần thiết, tức không cần đa đảng. Cố nhiên, trên thế giới không hề có chuyện bao nhiêu thành phần kinh tế thì bấy nhiêu đảng phái chính trị (còn nữa). 

[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 13, tr.15.

[2]. V.I.Lênin (1977): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tập 42, tr.349.

[3]. V.I.Lênin (1978): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tập 45, tr.147.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1997): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 37, tr.641.

[5]. V.I.Lênin (1977): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tập 42, tr.350.

[6]. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.4.

[7]. Xem Khánh Hân (2021)” “Mở ra giai đoạn mới để đất nước tiến xa hơn, nhân dân ấm no, hạnh phúc”. (https://baochinhphu.vn/Thoi-su/Mo-ra-giai-doan-moi-de-dat-nuoc-tien-xa-hon-nhan-dan-am-no-hanh-phuc/421800.vgp).

[8]. Xem Nguyễn Minh Phong - Nguyễn Trần Minh Trí (2021): “Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam”. (https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do-kinh-te-viet-nam-631311).