Trong lịch sử phát triển, không một nền kinh tế nào có thể tăng trưởng bền vững nếu thiếu một trật tự chính trị ổn định; và cũng không một trật tự chính trị nào có thể dài lâu nếu không được nâng đỡ bởi nền tảng vật chất - xã hội tương xứng.

Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới hiện nay, ổn định chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng và với đường lối, chủ trương mang tính khách quan, khoa học, phản ánh đúng quy luật vận động của thực tiễn. Do đó, mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định chính trị vận hành như một trục quy chiếu xuyên suốt tiến trình đổi mới: mỗi bên vừa là tiền đề, vừa là kết quả của bên kia, cùng kiến tạo động lực cho phát triển bền vững.

Một môi trường chính trị - xã hội ổn định không chỉ bảo đảm trật tự, an ninh, mà còn tạo ra niềm tin - yếu tố vô hình nhưng quyết định để thu hút nguồn lực cho phát triển. Các lý thuyết hiện đại về “kinh tế thể chế” cũng chỉ ra rằng, sự ổn định và hiệu quả của thể chế chính trị là một trong những nhân tố quan trọng giải thích sự khác biệt về tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia.

Căn nguyên bảo đảm cho sự ổn định chính trị bền vững ở Việt Nam trong suốt nhiều năm qua nằm ở tính chính đáng của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được kiến tạo từ uy tín chính trị, đạo đức, trí tuệ của Đảng đối với nhân dân.

Uy tín ấy được chứng thực trong lịch sử cách mạng hơn chín thập niên: từ lãnh đạo đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước đến hoạch định và lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Trên nền tảng ấy, niềm tin xã hội đối với Đảng được củng cố; sự gắn bó “Đảng - Nhân dân” ngày càng bền chặt. Trong logic đó, mọi nỗ lực phủ nhận, xuyên tạc hay kích động chia rẽ của các lực lượng đối kháng khó có thể triệt tiêu được nền tảng tính chính đáng đã được lịch sử kiểm chứng và đời sống hàng ngày xác nhận. Sức đề kháng của hệ thống chính trị - xã hội đến từ hai nguồn: (i) hiệu quả cầm quyền thể hiện qua kết quả phát triển kinh tế và an sinh xã hội; (ii) đồng thuận xã hội được bồi đắp bởi lợi ích chung quốc gia - dân tộc, qua đó làm vô hiệu hóa các toan tính gây bất ổn.

Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết tốt mối quan hệ ổn định chính trị và phát triển kinh tế quá trình đổi mới đất nước

 - Ảnh: tuyengiao.vn

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tính chính danh và pháp chế cao cũng là yếu tố then chốt đảm bảo cho ổn định chính trị ở Việt Nam. Nhà nước Việt Nam vừa đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân, vừa thực hiện quản trị xã hội trên cơ sở pháp luật. Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, cải cách tư pháp, cải cách hành chính được đẩy mạnh, bảo đảm sự minh bạch và công bằng. Đây chính là “hành lang pháp lý” cho các hoạt động kinh tế - xã hội.

Một điểm nổi bật ở Việt Nam là sự đồng thuận cao giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, thể hiện qua tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí thống nhất vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính sự đồng thuận này đã giúp Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn như khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997, khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, hay đại dịch COVID-19...

Một điều kiện cấu thành khác của ổn định chính trị ở Việt Nam là tinh thần đoàn kết: đoàn kết trong Đảng gắn với đoàn kết toàn dân tộc. Sự thống nhất ý chí và hành động của toàn bộ hệ thống chính trị, cùng sự tham dự tự giác của các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội vào mục tiêu chung, tạo nên một chỉnh thể liên kết vừa linh hoạt vừa bền chặt.

Những đặc điểm trên tạo nên một môi trường chính trị ổn định, vừa bảo đảm định hướng lâu dài, vừa có khả năng thích ứng với những biến động trong và ngoài nước.

Bảo đảm ổn định chính trị và phát triển kinh tế được đặt trên nền tảng đổi mới toàn diện, đồng bộ và có kế thừa.

“Đổi mới”, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, là một quá trình cách mạng có tính toàn diện và chiều sâu, thẩm thấu mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi cấp độ của hệ thống chính trị - xã hội. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là đổi mới đồng thời trên hai bình diện gắn bó hữu cơ: (i) bình diện nhận thức - tư tưởng, nhằm hiệu chỉnh hệ quy chiếu lý luận theo tinh thần duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; và (ii) bình diện tổ chức - thực tiễn, nhằm kiến tạo các cơ chế, thiết chế và phương thức vận hành phù hợp. Sự đồng bộ ấy phải bao quát kinh tế, chính trị, văn hóa và các lĩnh vực xã hội khác, nhưng không đồng nghĩa với dàn trải: triển khai đổi mới cần xác lập ưu tiên chiến lược, nhận diện trọng tâm, trọng điểm, nắm khâu then chốt và “mắt xích” chủ yếu trong từng giai đoạn để tập trung nguồn lực, tránh lãng phí và phân tán.

Tính đồng bộ còn đòi hỏi sự liên thông theo chiều dọc (từ Trung ương tới địa phương) và chiều ngang (giữa các ngành, các lĩnh vực và cơ sở), bảo đảm nhất quán mục tiêu, phối hợp nhịp nhàng công cụ và phương tiện chính sách. Đồng thời, đổi mới phải tuân thủ nguyên lý phát triển có kế thừa của chủ nghĩa Mác - Lênin: kế thừa những yếu tố hợp lý, chọn lọc những giá trị còn hiệu lực, đồng thời thực hiện phủ định biện chứng đối với những yếu tố lạc hậu, không còn phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Trong cấu hình mục tiêu - phương tiện, cần xác quyết: đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện và tiền đề, còn phát triển nhanh, bền vững là mục đích. Trên cơ sở đó, ổn định chính trị và phát triển kinh tế mới có nền tảng vững chắc để tương tác, nâng đỡ lẫn nhau, kiến tạo tiền đề lý luận và thực tiễn cho quỹ đạo phát triển bền vững của đất nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhân dịp tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ, ngày 24-9-2024     Ảnh: TTXVN

n định chính trị và phát triển kinh tế gắn bó hữu cơ với việc thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, lấy lợi ích của nhân dân làm chuẩn mực định hướng.

Trong quỹ đạo đổi mới, Đảng xác định, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu của công cuộc kiến tạo xã hội mới, vừa là động lực nội sinh khơi mở và quy tụ mọi tiềm năng sáng tạo của con người; dân chủ hóa đời sống xã hội làm gia tăng tính chủ thể, tính tích cực và tính tham dự của nhân dân, qua đó nâng cao hiệu quả của các quá trình tái cấu trúc kinh tế - xã hội. Công bằng xã hội, trên nền tảng quyền và cơ hội phát triển bình đẳng, là điều kiện bảo đảm tính chính đáng của quyền lực và tính bền vững của tăng trưởng.

Dân chủ được thể chế hóa và hiện thực hóa trước hết thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, là yêu cầu cốt tử của quá trình dân chủ hóa. Điều đó đòi hỏi kiến tạo khuôn khổ pháp lý minh bạch, cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu, trách nhiệm giải trình và các kênh tham gia của công dân, nhằm biến “ý chí chung” của nhân dân thành nội dung thực chất của chính sách công.

Công bằng xã hội là một mục tiêu trung tâm của chế độ xã hội định hướng xã hội chủ nghĩa: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” - đồng thời là thước đo giá trị và một động lực nội sinh của phát triển, cũng như một nhân tố bảo đảm ổn định chính trị. Như Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “không sợ thiếu, chỉ sợ phân phối không công bằng”, thông điệp ấy chỉ rõ rằng tính chính đáng của trật tự chính trị và hiệu lực của tăng trưởng phụ thuộc quyết định vào cơ chế phân phối công bằng. Thực tiễn đổi mới nhiều năm qua cho thấy mối liên hệ thuận chiều giữa duy trì ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hiện thực hóa công bằng xã hội.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, về bản chất, mang tính nhân dân sâu sắc: bắt nguồn từ nhân dân, hướng tới lợi ích của nhân dân và được hiện thực hóa bởi nhân dân. Dựa vào thực tiễn sinh động của quần chúng, tiến hành tổng kết, nâng lên thành tri thức lý luận, rồi thể chế hóa thành đường lối và chính sách đổi mới là một trình tự hợp quy luật. Ngược lại, đường lối ấy, khi phản ánh đúng nhu cầu, lợi ích chính đáng và nguyện vọng bức thiết của nhân dân, đã nhận được sự đồng thuận, tham gia tích cực và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Nhờ vậy, công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu chuẩn mực, mà còn trở thành cơ chế vận hành cụ thể giúp kết dính xã hội, gia tăng tính chính đáng của quyền lực và bồi đắp nền tảng cho tăng trưởng bao trùm, bền vững.

Nhìn lại gần 40 năm, các nội dung đổi mới kinh tế, chính trị do Đại hội VI khởi xướng đã đem lại những kết quả mang tính bước ngoặt. Nền kinh tế đạt nhịp độ tăng trưởng cao, chuyển dịch có tính hệ thống sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Nền tảng vật chất - kỹ thuật được củng cố, đời sống các tầng lớp nhân dân liên tục cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh, trật tự chính trị - xã hội ổn định; các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tăng đều qua các năm. Sức mạnh tổng hợp được nâng lên rõ rệt, vị thế quốc tế của đất nước không ngừng cải thiện.

Những thành quả ấy chính là minh chứng rõ ràng cho việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế, đặc biệt là duy trì ổn định chính trị đi đôi với tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, mức độ đồng thuận xã hội được bồi đắp, niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố; các chủ trương, chính sách lớn có ý nghĩa quan trọng nhận được sự ủng hộ rộng rãi.