Nhận diện các luận điệu sai trái, thù địch
Một là, quan điểm cho rằng Nhà nước Việt Nam ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định phức tạp để tạo ra một hệ thống pháp lý ưu ái cho các tôn giáo, tổ chức tôn giáo đã được công nhận, đồng thời tạo khó khăn cho các các tổ chức tôn giáo chưa được công nhận, các tổ chức tôn giáo độc lập, các tôn giáo mới. Một trong những tổ chức thường xuyên cáo buộc Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo, phân biệt đối xử tôn giáo là USCIRF - Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, một tổ chức liên bang lưỡng đảng của Mỹ được thành lập trên cơ sở Đạo Luật tự do tôn giáo quốc tế được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1998.
Trong nhiều năm nay, tổ chức này liên tục khẳng định rằng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng hệ thống đăng ký hoạt động tôn giáo bắt buộc để kiếm soát các tôn giáo. Những tổ chức tôn giáo không đăng ký hoặc không được chấp thuận đăng ký phải đối mặt với sự phân biệt đối xử của chính quyền nhà nước. Chức sắc, tín đồ của các nhóm tôn giáo này có nguy cơ bị sách nhiễu, bị quấy rối, thậm chí bị đàn áp. USCIRF thường xuyên, liên tiếp khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC).
Một tổ chức quốc tế khác là HRW - Tổ chức theo dõi nhân quyền cho rằng Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã trao cho nhà nước, chính phủ quyền lực quá lớn trong việc công nhận hoặc từ chối công nhận các tổ chức tôn giáo. Điều này đã dẫn đến việc chính quyền địa phương sách nhiễu, đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập.
Hai là, quan điểm cho rằng Nhà nước Việt Nam biệt đãi Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong khi kiểm soát chặt chẽ với Kitô giáo, bao gồm cả Công giáo và đạo Tin Lành. Những tổ chức, cá nhân có quan điểm này thường gọi Giáo hội Phật giáo Việt Nam là “giáo hội quốc doanh” với ý nghĩa là tổ chức Phật giáo do Nhà nước Việt Nam lập ra và hậu thuẫn. Nhà nước không công nhận các tổ chức Phật giáo độc lập, đặc biệt là Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và Phật giáo Khmer Krom cũng bởi lý do này. Họ còn cho rằng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức tôn giáo duy nhất thực sự được Nhà nước, chính quyền địa phương công nhận nên dành cho rất nhiều điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển như các ưu đãi về đất đai, cơ sở thờ tự, hoạt động tôn giáo ở các không gian công cộng và không gian chính trị. Ngược lại, nhà nước và chính quyền các địa phương lại kiểm soát chặt chẽ, hạn chế hoạt động của Công giáo và đạo Tin Lành do lo ngại sự trung thành của Công giáo Việt Nam với Tòa thánh Vatican và mối quan hệ rộng rãi, phức tạp của các hệ phái Tin Lành trong nước với Tin Lành quốc tế.
Luận cứ đấu tranh phản bác
Một là, đối với quan điểm cho rằng Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam chứa đựng nội dung bất bình đẳng tôn giáo, đây là một quan điểm cố tình xuyên tạc chính sách tôn giáo của Việt Nam.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” (Khoản 1 điều 3). Luật cũng đưa ra quy định cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo (Khoản 1 điều 5). Tổ chức, cá nhân nào vi phạm những hành vi bị nghiêm cấm và các quy định khác của Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì “tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự” (điều 64).
Trên thực tế, không phải đến Luật tín ngưỡng, tôn giáo Đảng và Nhà nước ta mới khẳng định việc bảo đảm quyền bình đẳng tôn giáo. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta từ những ngày đầu thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, song được thể hiện rõ ràng nhất ở thời kỳ Đổi mới. Nghị quyết số 25-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Công tác tôn giáo ngày 12/3/2003 đã khẳng định: “Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về tôn giáo, qua đó bảo đảm quyền bình đẳng tôn giáo trong thực tế. Luật tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản pháp quy thể chế hóa đầy đủ nhất quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo, cũng thể hiện đầy đủ nhất quan điểm thực hiện chính sách bình đẳng tôn giáo.
Hai là, đối với quan điểm cho rằng Nhà nước Việt Nam biệt đãi Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gây khó khăn với các tổ chức Phật giáo độc lập, kỳ thị, phân biệt đối xử với tôn giáo khác, nhất là Công giáo và đạo Tin Lành là một nhận định phiến diện về thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam, phủ nhận những nỗ lực của Việt Nam nhằm bảo đảm quyền tự do, bình đẳng tôn giáo cho mọi người với ý đồ khoét sâu sự khác biệt niềm tin tôn giáo, chia rẽ quan hệ giữa các tôn giáo, chia rẽ tôn giáo với Đảng và nước.
Thực tiễn cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh thực hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, bình đẳng tôn giáo cho mọi người. Nhà nước không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2017 không có bất kỳ điều khoản nào quy định về việc ưu tiên cho Phật giáo hay kiềm chế, kiểm soát riêng dành cho Kitô giáo và các tôn giáo khác. Tất cả quy định trong Hiến pháp và Luật áp dụng cho mọi người sinh sống và làm việc ở Việt Nam, mọi tổ chức, hệ phái tôn giáo đang hoạt động ở Việt Nam, bao gồm cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sở dĩ Phật giáo nổi bật trong đời sống tôn giáo và đời sống xã hội không bởi vì Đảng và Nhà nước biệt đãi tôn giáo này mà bởi vì Phật giáo đã có gần hai nghìn năm lịch sử gắn bó với các thế hệ, tạo nên bản sắc văn hóa và cốt cách con người Việt Nam.
Riêng tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, do là thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong hơn 40 năm qua đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Sự hiện diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam không phải là lý do tổ chức này nhận được sự biệt đãi của Nhà nước. Thực tế, Nhà nước khuyến khích tất cả các tôn giáo tham gia Mặt trận Tổ quốc, nhưng sự tham gia của các tổ chức tôn giáo khác rất hạn chế. Những đóng góp của giáo hội Phật giáo Việt Nam vì thế đã được Nhà nước ghi nhận, tuyên dương chứ không phải sự ưu ái về mặt pháp lý. Vì vậy, nói Nhà nước biệt đãi Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong khi kiểm soát, hạn chế các tổ chức tôn giáo khác là hoàn toàn sai trái.
Sự phát triển liên tục, nhanh chóng của Công giáo và đạo Tin Lành trong những thập kỷ Đảng lãnh đạo Nhà nước Việt Nam, nhất là giai đoạn Đổi mới mà minh chứng xác thực nhất bác bỏ luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam kiểm soát Kitô giáo. Đối với Công giáo Việt Nam, năm 1975 sau ngày thống nhất đất nước chỉ có 2,8 triệu tín đồ, 2000 linh mục, gần 5000 tu sĩ, đến năm 2020 có tới 7 triệu tín đồ, 5779 linh mục, 26666 tu sĩ.
Đạo Tin Lành là tôn giáo có tốc độ phát triển nhanh chóng nhất ở Việt Nam. Năm 1954, đạo Tin Lành mới có khoảng 15 nghìn tín đồ, với 132 mục sư, truyền đạo, tập trung chủ yếu ở phía Nam. Kể từ khi bước vào Đổi mới, đạo Tin Lành phát triển một cách đột biến. Năm 2004 cả nước có 670 nghìn tín đồ. Đến năm 2020, số tín đồ theo đạo Tin Lành đã vượt qua 1 triệu người, 2303 chức sắc và 6981 chức việc, sinh hoạt tôn giáo ở khắp các tỉnh thành trong cả nước song tập trung đông nhất ở khu vực Tây Nguyên, sau đó là khu vực miền núi phía Bắc. Những con số này không chỉ cho thấy chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam cơ bản bảo đảm được quyền tự do tôn giáo, bình đẳng tôn giáo.
Thực tiễn trên cho thấy, các luận điệu cho rằng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương biệt đãi Giáo hội Phật giáo Việt Nam, kiểm soát, hạn chế, quấy nhiễu, đàn áp các tôn giáo khác là những luận điệu cố tình vu khống của những người xấu với ý đồ làm rối loạn trật tự an toàn xã hội, tạo cớ để các thế lực thù địch phương Tây can thiệp vào nội bộ nước ta dưới lá cờ Dân chủ, Nhân quyền.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam(2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr.48
