
Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân phát biểu tại phiên khai mạc Khóa họp lần thứ 68 Ủy ban Địa vị phụ nữ (CSW68)
của Hội đồng kinh tế, xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC). Ảnh: Thanh Tuấn - PV TTXVN tại Hoa Kỳ (11/3/2024)
Bình đẳng giới là trụ cột của phát triển bền vững và là thước đo tiến bộ xã hội. Bình đẳng giới bền vững là quá trình đạt vị thế bình đẳng, được tôn trọng và phát huy tối đa năng lực của cả nam và nữ trong mọi lĩnh vực đời sống, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về những nỗ lực thúc đẩy quyền phụ nữ và trẻ em gái. Tuy nhiên, các lĩnh vực khác nhau vẫn cho thấy mức độ tiến bộ không đồng đều. Theo Báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu (Global Gender Gap) năm 2025 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam đạt 71,8% chỉ số bình đẳng giới, xếp hạng 89/148 quốc gia. Các bước tiến phần lớn đến từ giáo dục và y tế, trong khi khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị và kinh tế vẫn còn khoảng cách lớn.
Thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam
* Bình đẳng giới trong giáo dục
Giáo dục là lĩnh vực Việt Nam đạt thành tựu bình đẳng giới cao nhất. Theo UNESCO (2025), Việt Nam đạt gần 99% chỉ số bình đẳng giới trong tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học. Ở một số địa phương, tỷ lệ nhập học của trẻ em gái cao thậm chí còn cao hơn trẻ em trai. Tỷ lệ nữ giới theo học đại học và sau đại học cũng tương đối cao chiếm khoảng 54,6%[i]. Điều này cho thấy Việt Nam đã đạt bình đẳng thực chất trong tiếp cận cơ hội học tập.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng cách giới trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM). Tại Việt Nam, mặc dù tỷ lệ nữ giới theo học đại học và sau đại học cao nhưng số lượng sinh viên nữ trong các khối ngành STEM lại rất thấp. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), kinh doanh và thương mại là những ngành học thu hút nhiều sinh viên tại Việt Nam với 41,2% sinh viên nam và 60,6% sinh viên nữ[ii]. Trong khi đó, tỷ lệ nam sinh viên chọn ngành kỹ sư, thông tin, truyền thông và công nghệ lần lượt là 20,8%, 18,6% thì chưa đến 10% học sinh nữ tại Việt Nam theo đuổi các ngành STEM. Nếu khoảng cách số giữa nam và nữ giới không được thu hẹp, khác biệt về cơ hội việc làm và thu nhập giữa hai giới sẽ càng ngày càng lớn.
* Bình đẳng giới trong y tế và chăm sóc sức khỏe
Lĩnh vực y tế là một trong những thế mạnh của Việt Nam trong thúc đẩy bình đẳng giới. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (2024), Việt Nam đạt 96,8% chỉ số bình đẳng giới về “Sức khỏe và sự sống”. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ đạt 77,1 tuổi, cao hơn nam giới 5 năm (Tổng cục thống kê, 2024). Phụ nữ được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tiền sản và hậu sản.
Báo cáo của Plan International (2024) cũng chỉ ra Việt Nam đạt kết quả tích cực và ổn định về chỉ số “Sức khỏe”, bất chấp xu hướng suy giảm ở nhiều quốc gia khác. Các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, kế hoạch hóa gia đình và phòng chống bạo lực giới được triển khai mạnh mẽ. Tỷ lệ tử vong mẹ khi sinh giảm xuống còn 40/100.000 ca năm 2024 (WHO, 2025), và tỷ lệ phụ nữ được khám thai ít nhất ba lần trong thai kỳ đạt trên 95%.
Tuy nhiên, vấn đề sức khỏe tinh thần và gánh nặng kép của phụ nữ trong công việc chăm sóc gia đình vẫn đáng lo ngại. Phụ nữ Việt Nam dành trung bình 20 giờ mỗi tuần cho công việc chăm sóc không được trả lương, trong khi đó số giờ làm việc nhà của nam giới chỉ bằng ½ của nữ giới (UNDP, 2024).
* Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Việt Nam được ghi nhận là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham chính cao trong khu vực. Theo Plan International (2024), Việt Nam đứng thứ hai toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương về chỉ số “Tiếng nói và sự tham gia chính trị của phụ nữ”. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26%, cao hơn mức trung bình thế giới là 26,7% (IPU, 2024). Tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng đạt 10%, và có nhiều lãnh đạo nữ giữ chức vụ Bộ trưởng, Thứ trưởng và Chủ tịch tỉnh. Tính đến tháng 5/2025, nữ Ủy viên Bộ Chính trị là 6,25%, nữ Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII (chính thức và dự khuyết) đạt 10,65%. Sau sắp xếp các tỉnh, thành phố, có 3/34 nữ bí thư tỉnh/thành uỷ, chiếm 8,82% (tại thời điểm cuối tháng 6/2025 có 7/63 nữ bí thư, chiếm 11,11%); có 19 nữ phó bí thư (trước sắp xếp là 16). Ở địa phương, theo số liệu sơ kết giữa nhiệm kỳ, tỷ lệ nữ cấp ủy cấp tỉnh là 15,87%, cấp huyện là 19,22%, cấp cơ sở là 24,52%; cán bộ nữ tham gia ban thường vụ cấp tỉnh đạt 12,50%, cấp huyện đạt 14,26%, cấp cơ sở đạt 15,73%.[iii]
Về đội ngũ nữ đảng viên, tỷ lệ đảng viên nữ về cơ bản đều tăng qua các nhiệm kỳ. Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, tính đến ngày 31/12/2022, cả nước có hơn 5,3 triệu đảng viên; trong đó, đảng viên nữ chiếm 38,1% tổng số đảng viên toàn Đảng; tỷ lệ đảng viên nữ tăng gấp 1,8 lần so với tỷ lệ tăng đảng viên của toàn Đảng; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị ngày càng cao hơn...[iv]
Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách rõ rệt giữa cấp trung ương và cấp cơ sở. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, Hội đồng nhân dân cấp xã mới đạt khoảng 26%, thấp hơn mục tiêu 35% theo Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021–2030.
* Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Theo Báo cáo Global Gender Gap Report 2025, Việt Nam đạt mức 65,1% trong chỉ số “Tham gia và Cơ hội kinh tế”, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình thế giới (60,5%). Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động là 68%, cao hơn nhiều nước cùng khu vực, song thu nhập trung bình của phụ nữ chỉ bằng khoảng 85% so với nam giới (ILO, 2024). Phụ nữ chủ yếu tập trung trong khu vực phi chính thức, ít cơ hội thăng tiến và tiếp cận tài chính hạn chế. Tuy nhiên, những năm gần đây Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp. Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp” đã giúp hơn 60.000 phụ nữ tiếp cận vốn và kỹ năng quản trị. Trong lĩnh vực công nghệ, tỷ lệ nữ sáng lập startup tăng lên 26% năm 2024, tăng 8% so với năm 2020 (NIC, 2025).
Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc thu hẹp khoảng cách giới, đặc biệt trong giáo dục và y tế. Tuy nhiên, lĩnh vực chính trị và kinh tế vẫn cần những bước tiến mạnh mẽ hơn. Bình đẳng giới không chỉ là quyền con người cơ bản mà còn là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng tăng trưởng. Theo nghiên cứu của McKinsey (2023), nếu thu hẹp khoảng cách giới trong lao động, GDP toàn cầu có thể tăng thêm 12%. Vì vậy, chiều cạnh giới phải được tính đến trong hoạch định và thực thi chính sách ở các lĩnh vực.
Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới bền vững ở Việt Nam
Thứ nhất, giải pháp về hoàn thiện khung luật pháp, chính sách: Bảo đảm nữ và nam giới có điều kiện, cơ hội tiếp cận giáo dục, thông tin, kỹ thuật số, cơ hội việc làm, cơ hội thăng tiến như nhau. Lồng ghép giới trong chính sách về chuyển đổi số và kinh tế xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt SDG 5 mà còn hỗ trợ các mục tiêu SDG 8 (tăng trưởng kinh tế bền vững) và SDG 16 (xã hội hòa bình, công bằng và bao trùm).Quan tâm bố trí kinh phí cho hoạt động, nội dung về bình đẳng giới, lập ngân sách có trách nhiệm giới trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Thứ hai, bảo đảm rằng mọi học sinh, bất kể giới tính, đều có cơ hội học tập như nhau. Cung cấp học bổng và hỗ trợ tài chính cho học sinh nữ, đặc biệt là ở các khu vực nghèo, để khuyến khích họ tiếp tục học tập. Tăng cường chương trình giảng dạy về STEM dành cho học sinh/sinh viên nữ. Việc lồng ghép giới trong nội dung giảng dạy và cải thiện môi trường học tập bình đẳng là hướng đi quan trọng nhằm duy trì thành tựu lâu dài.
Thứ ba, để thu hẹp khoảng cách giới trong kinh tế, Việt Nam cần thúc đẩy tài chính toàn diện, bảo đảm phụ nữ có quyền tiếp cận tín dụng, đào tạo kỹ năng số và tham gia sâu hơn vào các ngành có giá trị gia tăng cao đặc biệt là KH&CN. Các chương trình như 'Women in STEM' và 'SheCodes Vietnam' nên được nhân rộng nhằm khuyến khích phụ nữ tham gia lĩnh vực công nghệ – động lực chính của nền kinh tế tri thức.
Thứ tư, các chính sách an sinh cần chú trọng hơn đến hỗ trợ phụ nữ trong chăm sóc con nhỏ, người cao tuổi và y tế cộng đồng. Cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân, chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ chăm sóc gia đình, cùng chính sách làm việc/nghỉ phép linh hoạt nhằm giảm bớt gánh nặng cho phụ nữ và trẻ em gái…sẽ là bước tiến cần thiết để đạt bình đẳng giới thực chất, toàn diện.
Thứ năm, giải pháp về truyền thông: tăng cường hơn nữa hình ảnh các nhà khoa học nữ, các nữ doanh nhân/lãnh đạo doanh nghiệp, nữ lãnh đạo, quản lý trên các phương triện truyền thông, sách giáo khoa nhằm tác động mạnh mẽ, truyền cảm hứng cho trẻ em gái và phụ nữ về vai trò, vị thế kinh tế, chính trị của phụ nữ trong xã hội.
Việt Nam đã và đang thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực. Những kết quả đạt được là đáng khích lệ, nhưng để đạt được bình đẳng giới thực chất, bền vững cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, khu vực tư nhân và toàn xã hội. Việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong chính trị, nâng cao cơ hội kinh tế, duy trì thành tựu giáo dục và y tế sẽ giúp Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu phát triển bền vững và khẳng định vai trò tiên phong trong khu vực về bình đẳng giới./.
Tài liệu tham khảo
- Diễn đàn kinh tế thế giới (2023). Global Gender Gap Report 2023. Geneva: WEF.
- Diễn đàn kinh tế thế giới (2024). Global Gender Gap Report 2024. Geneva: WEF.
- Diễn đàn kinh tế thế giới (2025). Global Gender Gap Report 2025. Geneva: WEF.
- UNESCO. (2025). Global Education Monitoring Report: Gender report – Women lead for learning. Paris: UNESCO.
- Plan International. (2024). Girls’ Leadership Index 202 Asia-Pacific Regional Office.
- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. (2025). Báo cáo quốc gia về bình đẳng giới năm 202 Hà Nội.
- UN Women. (2024). Women in Leadership and Political Participation in Asia-Pacific.
- International Labour Organization (ILO). (2024). Women and the Future of Work in ASEAN.
- Tổng Cục thống kê (2024) Niêm giám thông kê năm 2024
- McKinsey & Company. (2023). The Power of Parity: Advancing Women’s Equality in the Global Economy.
[ii] ILO, Báo cáo ASEAN trong quá trình chuyển đổi, công nghệ đang thay đổi việc làm và doanh nghiệp như thế nào, tháng 12-2016.
[iii] https://danviet.vn/chu-tich-hoi-lhpn-viet-nam-ty-le-nu-cap-uy-cac-nhiem-ky-qua-co-xu-huong-d1364621.html
[iv] https://danviet.vn/chu-tich-hoi-lhpn-viet-nam-ty-le-nu-cap-uy-cac-nhiem-ky-qua-co-xu-huong-d1364621.html
